Hỗn Thế thần kiếm – Huyết Lệ hoa
Từ thuở xa xưa rất lâu trở về trước, khi mà vũ trụ vẫn còn sơ khai, hỗn độn chưa hoàn chỉnh, lúc đó, tồn tại một lực lượng siêu nhiên sở hữu sức mạnh đạt đến ngưỡng vô cực. Họ thần thông quảng đại đến mức có thể tạo ra rất nhiều chiều không gian cùng những chủng loài mới và được truyền thuyết tương truyền lại với cái tên “thượng thần”.
Hỗn Mang là một trong số những hành tinh cằn cỗi nằm rải rác trong vũ trụ, được các thượng thần ghé thăm đồng thời ban phát sự sống khắp mọi nơi cho muôn loài. Những hạt mầm sinh linh gieo xuống nơi đây dần dần phát triển thành ba bộ tộc Nhân – Yêu – Ma ngự trị tam phương. Trải qua hàng ngàn năm kiến tạo nên thế giới, hầu hết các thượng thần đều hài lòng với những gì đã đạt được và quyết định cùng nhau trở về cõi vĩnh hằng – nơi nào đó xa xôi ở vũ trụ ngoài kia mà không một sinh vật nào tại Hỗn Mang có thể tìm đến.
Tuy nhiên, một vị thượng thần vẫn luôn cảm thấy lo lắng cho vùng đất còn nhiều bất ổn này nên đã quyết định ở lại. Người đi khắp nơi hành y cứu thế, tạo phúc cho chúng sinh cũng như chăm sóc những đứa con mà các thượng thần khác đã tạo ra. Công đức của người khiến cả thế gian tôn kính và gọi với danh xưng cao quý – Y Thánh.
*
* *
Nhân tộc cai quản phía bắc, Yêu tộc ngự trị phía nam và Ma tộc phương đông, cả ba tộc này sinh sống ở những nơi có thổ nhưỡng lẫn khí hậu hoàn toàn khác nhau. Trong khi Nhân và Yêu tộc được các thượng thần ưu ái ban tặng cho vùng đất trù phú, màu mỡ, ôn hòa bao nhiêu thì Ma tộc lại phải gánh lấy một Ma giới khắc nghiệt, hoang tàn bấy nhiêu.
Nhiều nơi ở Ma giới quanh năm hạn hán đến nỗi không thể chăn nuôi hay trồng trọt bất cứ thứ gì, dân chúng thường xuyên lâm vào cảnh đói rách, khốn cùng. Đã thế, địa hình của Ma giới lại chỉ có sa mạc, băng hoang, tử địa, núi lửa và thung lũng độc dược. Nhưng cũng chính vì sinh ra trong lầm than và khổ cực mà đổi lại, Ma tộc có khả năng sinh tồn rất cao, họ sở hữu tu vi mạnh mẽ, ý chí dũng cảm và thiện chiến. Một phần nhỏ thì tàn bạo, khát máu. Cai trị Ma giới là Ma Đế – kẻ được lựa chọn là biểu tượng cho sức mạnh cường đại đứng đầu.
Song song với Ma tộc, hai tộc còn lại tuy may mắn có cuộc sống sung túc, đủ đầy nhưng cũng vẫn tồn tại vấn đề riêng.
Nhân tộc được trị vì bởi Hoàng Đế Thượng quốc cùng các Vương thuộc mười hai nước chư hầu, là tộc được thượng thần ưu ái nhất. Không chỉ sinh ra tại một nơi màu mỡ, tươi đẹp mà còn được ban tặng trí khôn cao hơn các loài khác. Cũng bởi do cuộc sống quá thuận lợi và êm đềm mà lòng tham luôn là thứ khiến các nước trong Nhân tộc rơi vào nội chiến kéo dài. Yêu tộc cũng không khá hơn là mấy, dẫu được Yêu Đế cai quản nhưng nội bộ trong tộc vẫn luôn tồn tại sự ganh ghét, đố kỵ, chia bè phái phân tranh, tàn sát lẫn nhau bởi vốn dĩ thiên chất của yêu là ma mãnh và gian xảo.
Ranh giới tam tộc được xác định bởi con sông lớn nhất Hỗn Mang. Cấu trúc sông chảy uốn khúc từ bắc xuống nam chia cắt Nhân – Yêu giới với Ma giới của Ma tộc, đoạn gần giữa sông rẽ một nhánh sang phía tây phân cách lãnh thổ giữa hai tộc Nhân và Yêu. Cũng ngay tại ranh giới này, sau khi các thượng thần trở về cõi vĩnh hằng không bao lâu, tam tộc tồn tại rất nhiều xích mích, mâu thuẫn chẳng thể hòa giải nổi nên đã mở hàng loạt trận huyết chiến tấn công nhau. Trải qua khoản thời gian cả ngàn năm tam tộc loạn chiến, máu tươi đã đổ xuống nhuộm đỏ cả dòng sông, mặt nước phủ đầy xác chết phơi thây mang nỗi uất hận không thể siêu thoát. Từ đó mà sông được gọi với cái tên – Huyết Hồn.
Hạ lưu sông Huyết Hồn chảy ngang qua U Minh sơn, giữa các vách núi hình thành một Ác Linh cốc hết sức u ám, hàng chục vạn thây xác binh lính tử trận hòa chung cùng máu tanh từ thượng nguồn trôi xuống. Suốt ngàn năm tích tụ khiến nơi đây trở thành khu tử địa oán khí ngất trời, tà khí bốc lên dày đặc thu hút yêu ma tà ác khắp nơi, dệt nên khung cảnh cực kỳ ghê sợ và ám ảnh.
*
* *
Giữa năm tháng chiến tranh loạn lạc mãi chẳng thấy hồi kết của ba tộc Nhân – Yêu – Ma, trong dân gian bỗng nhiên lưu truyền lời tiên tri về một hung vật sẽ khiến cho cả Hỗn Mang rơi vào Diệt Thế. Hung vật này được miêu tả là thứ mang trong mình ma khí tà ác bậc nhất thế gian, chính là hiện thân của Ác Thần – vị thượng thần nắm giữ quyền năng hủy diệt vũ trụ, trong tương lai chắc chắn sẽ gây nên trận đại kiếp làm đảo lộn thiên hạ. Kể từ khi lời tiên tri bí ẩn ấy xuất hiện, lập tức khiến chúng sinh khắp nơi hoang mang tột độ. Song, mặc dù lời dự đoán về đại kiếp nghiêm trọng như vậy, thế nhưng vẫn không đủ sức để ngăn cản tranh đấu giữa tam tộc, chiến trận cứ tiếp tục diễn ra, sinh linh rơi vào cảnh lầm than, gia đình li tán, khổ cực muôn phần…
Đến một ngày nọ, sắc trời đột nhiên trở nên âm u, hắc ám. Sấm sét nổi liên hồi, gió thổi loạn phương vô cùng lạ thường. Tại vùng trũng gần Ác Linh cốc – điểm cuối cùng mà dòng sông Huyết Hồn đổ xuống gọi là đầm Huyết Lệ, chính ngay giữa đống tử thi chất chồng từ năm này qua năm khác, mọc lên một bông hoa mang màu sắc đỏ rực lạ thường, trông rất quỷ dị. Dị hoa này tu vi thiên bẩm rất bá đạo, vừa sinh ra đã có thể luyện thành nhân dạng.
Lặng lẽ đưa mắt ngắm nhìn khung cảnh hoang tàn hẻo lánh xung quanh mình, bản năng thôi thúc hắn nở nụ cười thật ghê rợn. Vừa lúc định rời đi, bỗng nhiên hắn bắt gặp từ xa có bóng trắng di chuyển lại gần. Hắn ngạc nhiên, sau đó lại cảm thấy tò mò. Bóng trắng kia nhanh chóng tiến đến lại gần hơn cho tới khi đã đứng sừng sững ngay trước mặt hắn. Không nói thêm lời nào cả, hắn đưa mắt nhìn chằm chằm vào kẻ đối diện.
Y Thánh quan sát hồi lâu, bỗng bật cười:
– Hóa ra lại là một đứa bé đáng yêu đến vậy, ha ha!
Thượng thần ngay khi trông thấy hắn thì lập tức quyết định thu nhận làm đệ tử. Đồng thời dùng thần lực phong ấn chân thân là dị hoa của hắn tại đầm Huyết Lệ. Sau đó còn tạo kết giới bao bọc xung quanh Ác Linh cốc và trồng vô vàn dược liệu, tái sinh lại vùng đất từng mang vẻ ảm đạm chết chóc này. Hơn thế nữa, Y Thánh còn đặt cho hắn cái tên nghe rất lạc quan – Hoa Vô Tư, (có nghĩa là bông hoa vô lo, vô nghĩ, không ưu phiền) chỉ dạy y thuật và cùng hắn sống trong cốc, bỏ mặc loạn chiến của tam tộc đang càng lúc càng gay gắt ngoài kia.
*
* *
Vài năm sau khi Hoa Vô Tư được Y Thánh thu phục thì tại Ma tộc, Ma Đế Phùng Nghiêm nhờ có Bá Tu Thạch – một trong Tam Thần Bảo mà các thượng thần khi xưa từng ban tặng cho tam tộc, đã thuận lợi thăng tiến lên tu vi thượng cổ và trở thành đại ma đầu mạnh nhất tam tộc lúc bấy giờ, khiến cho cục diện loạn chiến cả ngàn năm thay đổi. Chính vì đạt tu vi thượng cổ, Phùng Nghiêm chiếm thế thượng phong, thống lĩnh Ma quân đánh đâu thắng đó, khí thế ngút trời. Giữa tình hình biến chuyển nhiều bất lợi, Hoàng Đế Thượng quốc thống lĩnh quân đội Nhân tộc và Yêu Đế đứng đầu Yêu tộc không còn cách nào khác đành phải cùng hợp lực với nhau chống địch. Dưới sự tham gia của đồng thời nhiều môn phái cũng như các tông, giáo trên khắp Nhân – Yêu giới, tạo nên thời kì Hỗn Thế phân tranh tàn khốc, chiến trận triền miên.
Ma Đế Phùng Nghiêm hầu như trăm trận trăm thắng, càng ngày càng lấn sâu vào địa phận của Nhân tộc lẫn Yêu tộc. Ma quân đi đến đâu tàn sát đến đó, không trừ bất kì ai, từ bại binh cho đến dân thường đều bị chặt đầu hoặc đem đi chôn sống. Vàng bạc, của cải, lương thực bị cướp sạch không chừa lại gì, khí thế hung tàn khiến người người sợ hãi. Quân đồng minh Nhân – Yêu liên tiếp bại trận, ngậm ngùi nhìn từng thước lãnh thổ rơi vào tay quân địch, mặc cho chúng giày xéo.
Sau ba tháng khổ sở chống đỡ, đến cuối cùng, trận đại chiến nắm giữ vận mệnh hai tộc Nhân, Yêu được quyết định tại Thăng Long sơn – ngọn núi được tương truyền là nơi đầu tiên các thượng thần đặt chân đến Hỗn Mang Thế Giới, cũng là phòng tuyến quan trọng nhất để ngăn cản Ma tộc chiếm trọn toàn bộ tam giới. Chiến trận bùng nổ, ác liệt vô cùng, kéo dài ba ngày ba đêm, Ma quân khí thế ngút trời, chém giết tàn bạo. Thây chất thành núi, máu chảy thành sông, người chết như rơm rạ, mở ra cảnh tượng ướt đẫm máu tươi của chúng nhân. Những tưởng thắng lợi đã quá rõ ràng, thì bỗng nhiên từ môn phái tên Thanh Thiên của Nhân tộc, một nhân vật tự xưng Lý Thường Phong, tu vi mới chỉ cửu tinh, trên tay cầm theo thanh cổ kiếm quỷ dị không biết lai lịch từ đâu xuất hiện.
Thanh cổ kiếm tỏa ra ánh sáng màu xanh lam thuần khiết, trông tầm thường nhưng lại vô cùng sắc bén. Lý Thường Phong gọi nó là Hỗn Thế thần kiếm (nghĩa là thần kiếm sinh ra vào thời Hỗn Thế) – gặp thần giết thần, gặp quỷ giết quỷ, hủy diệt thiên địa, mang thần năng phá hủy bất cứ thứ gì nó chạm phải. Thần kiếm xuất trận, khiến cho cục diện thế gian lại lần nữa xoay chuyển…
*
* *
Vào ngày thứ ba của chiến trận, chính ngay lúc hai bên đang giao tranh cao trào nhất, Lý Thường Phong trên tay nắm chặt Hỗn Thế thần kiếm, trong giây phút quyết định đã bất ngờ một kiếm đâm xuyên tim của đại ma đầu Phùng Nghiêm. Kiếm khí áp đảo, lóe lên một ánh lam sắc. Tức khắc, Phùng Nghiêm thét lên đầy cuồng nộ tạo ra một luồng bá khí gây chấn động cả một vùng.
Máu từ tim Phùng Nghiêm chảy thành dòng nhuộm đen chiến giáp, hơi thở hắn bắt đầu đứt đoạn, dần yếu đi. Cuối cùng, hắn ngã xuống với đôi mắt chứa đầy uất hận, thân xác bị thần kiếm tiêu hủy thành tro tàn, trở về cát bụi. Tin tức Ma Đế tử trận nhanh chóng lan truyền khắp mọi chiến tuyến, làm toàn thể Ma quân như rắn mất đầu, mất đi ý chí, rơi vào hoảng loạn, tan rã đội hình.
Quân đồng minh Nhân – Yêu lúc này sĩ khí dâng cao, nắm chắc lợi thế trước mắt, ra sức truy đuổi, đánh cho Ma quân tan tác như ong vỡ tổ. Ma tộc nhận lấy thảm bại, tàn quân còn sót lại dưới sự chỉ huy của con trai Ma Đế – Thái tử Phùng Tung, lập tức thoái lui về tử thủ tại ranh giới sông Huyết Hồn. Vì Hỗn Thế gây ra quá nhiều mất mát đau thương, cộng thêm sau trận đại chiến tại Thăng Long sơn mấy ngày liền không ngừng nghỉ, quân đội của cả hai tộc Nhân – Yêu đều đã sớm kiệt quệ. Nếu còn tiếp tục chiến đấu đến cùng, càng quét vào Ma giới thì chỉ khiến cho tình hình cả hai phe trở nên bế tắc, chúng sinh phải gánh chịu cảnh lầm than, cơ cực muôn phần.
Bởi lí do đó, Lý Thường Phong quyết định đại diện cho liên minh hai tộc Nhân – Yêu, cùng với Phùng Tung thương lượng và lập ra lời hứa giữ vững hòa bình, tam tộc sẽ vĩnh viễn ngưng động binh đao, Ma tộc sẽ không bao giờ rời khỏi Ma giới dù chỉ nửa bước. Hỗn Thế chính thức kết thúc bằng “Hòa ước hòa bình”.
*
* *
Vào thời gian Hỗn Thế diễn ra, khi Nhân tộc và Yêu tộc hợp ước liên minh với nhau, mối quan hệ qua lại giữa hai bên theo thời gian đã sản sinh ra một chủng tộc mới, là con lai giữa người và yêu – Bán Yêu tộc. Bán yêu mang nhân dạng, trí khôn của người đồng thời sở hữu tu vi cùng pháp lực cao cường của yêu. Lâu dần, số lượng bán yêu ngày càng gia tăng, hình thành nên tứ đại thế gia lớn cai quản tứ phương tại Yêu giới là Phượng tộc phía nam, Hồ tộc phía tây, Long tộc phía tây bắc và Hổ tộc phía bắc.
Lý Thường Phong trong thời gian hòa ước đã đảm nhận chức trưởng môn và phát triển Thanh Thiên phái trở thành chính phái đứng đầu thiên hạ, ngự tại Thăng Long sơn. Đồng thời sáng tạo nên bộ tuyệt học Thanh Thiên Quyết Pháp, lấy ý chí làm nền tảng, dùng chân khí làm trụ cột, giúp phàm nhân thuận lợi hơn trong quá trình tu luyện. Ma tộc sau khi đại bại lui về Ma giới, tuân thủ theo hòa ước mà phong tỏa mọi con đường giao thương với bên ngoài, tạo kết giới kiên cố tại sông Huyết Hồn. Từ đó không hề bước chân ra khỏi kết giới nữa. Sự yên bình cứ thế trôi qua cả ngàn năm, bất chợt, thế cục thay đổi, nước sông Huyết Hồn một lần nữa lại nhuộm đỏ máu tươi – Phùng Nghiêm trùng sinh.
Tin tức Ma Đế Phùng Nghiêm sống lại khiến cả Hỗn Mang ai nấy đều khiếp sợ. Nhưng điều khiến người người kinh hãi hơn cả là hắn đã trùng sinh trên chính thân xác của con trai mình bằng một loại chú thuật vô cùng tàn ác – Đảo Mệnh Trùng Sinh thuật.
“Đảo Mệnh Trùng Sinh là ác chú cưỡng chế luân hồi, giúp trùng sinh trở lại ngay chính cơ thể còn đang sống, bảo toàn tu vi không bị ảnh hưởng. Kẻ bị trúng tà thuật này sẽ phải hoán đổi hồn phách, sinh mạng, thân xác và cả tu vi của mình với người yểm chú khi đủ điều kiện thành toàn. Và điều đặc biệt, Đảo Mệnh Trùng Sinh chỉ có thể yểm lên những người có cùng huyết thống thuần nhất. Là ác chú hư thiên hại lí, vô tình tàn nhẫn”.
Tại trận đại chiến Thăng Long sơn, hồn phách Phùng Nghiêm đã bị Hỗn Thế thần kiếm tiêu diệt. Tuy nhiên hắn đã sớm có chuẩn bị mà giữ lại một mảnh hồn phách vào người Phùng Tung, trải qua ngàn năm hòa ước nhằm nuôi dưỡng mảnh hồn phách đó lớn mạnh. Để rồi cuối cùng lợi dụng chú thuật cứu bản thân sống lại, sẵn sàng cướp đi sinh mạng của chính con trai mình. Phùng Nghiêm sau khi trùng sinh đã đem toàn bộ sự thù hận của mình đối với Nhân – Yêu tộc gieo rắc lên các binh sĩ trong Ma quân. Hắn tạo nên một đội quân tàn bạo, khát máu hơn bao giờ hết, mang trong mình nỗi căm thù đến tận xương tủy, không có nhân nhượng, không có khoan dung.
Mặc dù kẻ địch nguy hiểm hơn trước rất nhiều, thế nhưng đồng minh Nhân – Yêu trải qua ngàn năm hòa ước, đã tự xây dựng cho riêng mỗi tộc một đội quân hùng mạnh không hề thua kém gì so với Ma quân. Hơn nữa, Lý Thường Phong hiện tại tu vi cũng đã thăng tiến lên cảnh giới thượng cổ, hoàn toàn ngang tài ngang sức nếu chiến trận nổ ra. Ma Đế Phùng Nghiêm dẫu biết rất rõ điều đó nhưng vẫn cố chấp tập hợp toàn bộ binh lực, bội ước mà phá bỏ kết giới, âm mưu dẫn quân tiến đánh để chiếm lấy vùng đất màu mỡ trước mắt, không tiếc bất cứ giá nào. Để đối phó với nguy cơ Hỗn Thế sắp lặp lại thêm lần nữa, các môn phái trên khắp thiên hạ mà đứng đầu là Thanh Thiên phái đã cùng hợp lực với gia tộc tứ phương và quân đội đồng minh Nhân – Yêu tộc. Tất cả dưới sự chỉ huy của trưởng môn Lý Thường Phong đóng quân phòng thủ dọc theo ranh giới sông Huyết Hồn, quyết không để ngoại tộc lấn sang dù chỉ một bước.
Năm một ngàn một trăm mười sau khi “Hòa ước hòa bình” được thiết lập, Ma Đế Phùng Nghiêm thống lĩnh trăm vạn Ma quân vượt qua sông Huyết Hồn, tấn công trực diện vào tuyến phòng thủ của quân đội Nhân – Yêu. Chính thức đánh dấu mốc khởi động chiến tranh, Hỗn Thế tiếp diễn.
Hỗn Thế lần thứ hai kéo dài tận mười năm trời, viễn cảnh tang thương mà nó gây ra khinh khủng hơn gấp nhiều lần so với trước đây, hai phe giao tranh không dứt, bất phân thắng bại. Hàng ngàn trận hỗn chiến ác liệt nổ ra từ ngày này qua ngày khác. Hàng trăm vạn quân sĩ ngã xuống sau mỗi trận đánh, hàng triệu xác chết phơi thây bốc mùi hôi thối, sinh mạng chưa bao giờ trở nên rẻ rúng như hiện tại. Nước sông Huyết Hồn dần chuyển sang màu đen thẫm, bốc mùi tà khí ngút trời. Xung quanh trăm dặm cỏ cây không mọc nổi, mang đầy vẻ xác sơ, hoang tàn đến lạnh người.
Nhìn toàn cảnh thê lương trên sông Huyết Hồn, Lý Thường Phong biết rằng không thể kéo dài Hỗn Thế thêm được nữa, liền quyết ý dùng pháp trận Thanh Thiên, Thần Bảo Trống Phục Ma phong ấn bản thân cùng với Phùng Nghiêm xuống đáy sông Huyết Hồn. Vạn kiếp đồng quy, kết thúc Hỗn Thế!
*
* *
Tại đầm Huyết Lệ, chân thân dị hoa vẫn bị Y Thánh dùng pháp lực thượng thần phong ấn. Hơn nữa, Y Thánh còn lập kết giới phong tỏa trăm dặm xung quanh, tránh để tà khí của hoa thoát ra ngoài gây hại nhân gian. Vì vậy nên Hoa Vô Tư chỉ có thể sống quanh quẩn trong Ác Linh cốc cùng với Y Thánh bằng dạng phân thân từ nguồn sức mạnh của dị hoa tạo thành, pháp lực cũng bị hạn chế đi rất nhiều. Ngày này qua ngày khác suốt cả ngàn năm, Y Thánh chỉ dạy hắn y thuật, thỉnh thoảng đưa hắn đến nhân gian để chữa bệnh cứu người, giảng cho hắn nghe vô vàn đạo lí hướng thiện. Tuy tận tâm, nhiệt tình là vậy nhưng bản tính trời sinh ngang ngược, tự cao tự đại, thích bắt nạt kẻ khác của Hoa Vô Tư vẫn khó lòng mà thay đổi.
Hai trăm năm sau khi Hỗn Thế lần thứ hai kết thúc, một hôm, Y Thánh đưa Hoa Vô Tư lên trên đỉnh cao nhất của núi U Minh, vẻ mặt đầy tâm sự. Hắn nhìn cái dáng vẻ khác lạ của Y Thánh, liền hỏi giọng kênh kiệu:
– Ê lão già thúi, đưa ta đến đây làm gì?
Y Thánh thở dài:
– Đứa trẻ khó dạy này, thật khiến người khác lo lắng!
Hắn nhếch mép:
– Đứa trẻ á? Ta là hoa yêu sống cả ngàn năm rồi đó lão già.
Y Thánh không đáp, ánh mắt vẫn hướng về phía xa xăm, tiếng gió thổi phần phật y phục của người nghe rõ mồn một. Hoa Vô Tư trong lòng nảy sinh nhiều hoài nghi nhưng cũng lười hỏi thêm, bèn tiến tới cạnh Y Thánh. Hắn đứng dáng đứng ngông nghênh, điệu bộ hách dịch, ngó ngang ngó dọc, được một lúc rồi lại tặc lưỡi chán nản. Y Thánh trông cái bộ dạng ngớ ngẩn đó của hắn, lắc đầu cười:
– Ha ha, cũng không thể trách ngươi.
Hắn phớt lờ:
– Lão nói nhảm gì thế hả? Trên này gió lớn như vậy, lão cô đơn đến mức phải bắt ta cùng tới đây ngắm cảnh nói chuyện nhân sinh vỡi lão sao?
Y Thánh thư thả hít một hơi thật sâu, như thể đang cảm nhận hương vị của đất trời:
– Chân thân dị hoa của ngươi vẫn chưa có tên đúng không? Sinh ra tại đầm Huyết Lệ, vậy cứ gọi là Huyết Lệ hoa đi!
– Huyết Lệ hoa? Lúc đặt cái tên này lão có bỏ chút tâm huyết gì vào không hả? – Hắn mỉa mai.
– Tư à, ngươi từ đâu mà đến? – Y Thánh bất ngờ hỏi.
– Này, phải chăng lão sống lâu quá nên bị lẩm cẩm rồi? Vừa mới nói ta sinh ở đầm Huyết Lệ cơ mà?
– Vậy ngươi có biết… Ác Thần?
– Rốt cuộc lão muốn nói cái gì? – Hắn nôn nóng.
Y Thánh quay sang nhìn hắn, cười đôn hậu:
– Có những chuyện thuộc về số mệnh, đáng lẽ ban đầu ta nên ra tay diệt trừ mối hậu họa này, nhưng thiết nghĩ ai lại có thể ra tay với một đứa bé đáng yêu như vậy chứ? Ha ha.
– Không hiểu sao trước nay lão cứ lải nhải mãi cái câu chuyện vớ vẩn ấy chứ? Hay lão sợ ta quá lợi hại, sau này độc bá thiên hạ rồi hưởng hết tất cả sự sùng bái, thờ cúng của chúng nhân mà không chia cho lão? Lão làm thượng thần kiểu gì mà lại keo kiệt vậy? Mà thôi giờ hối hận cũng muộn rồi, hiện tại mà muốn tiêu diệt ta à!? Uầy, mơ đi!
Y Thánh đưa mắt nhìn xuống Ác Linh cốc, nhìn làn sương mờ phủ kín cả một vùng ấy, trầm tư:
– Ngươi nói phải, Hỗn Mang bây giờ, còn ai đủ sức để có thể tiêu diệt được ngươi nữa chứ?
Nét mặt hắn trở nên nghi hoặc:
– Không phải vẫn còn một lão thượng thần đang phong ấn ta ở chỗ này hay sao? Đừng nói với ta là lão…
– Thời gian của ta sắp hết rồi.
Hắn lặng đi, gương mặt lộ rõ sự kinh ngạc. Đột nhiên, tâm trạng hắn trở nên vô cùng khó chịu, cái cảm giác giống như đã đánh mất thứ gì đó rất quan trọng. Mãi lúc lâu sau, chợt nhận thấy bản thân không nên phô ra cái bản mặt ngu ngốc này nữa, hắn cố cười đắc ý:
– Hóa ra cuối cùng lão cũng bỏ cuộc rồi à? Đúng là tin tốt lành, từ nay ta chẳng cần phải nghe lão lảm nhảm nữa! Khặc khặc.
Y Thánh dường như không mấy chú tâm đến những lời kiêu ngạo đó từ hắn, ôn tồn dặn dò:
– Kết giới ta để lại xung quanh Ác Linh cốc này đã sớm không thể giữ được ngươi nữa, sau này nhất định sẽ chạy ra ngoài gây họa. Vô Tư, khi ta trở về cõi vĩnh hằng, ngươi phải trở thành một người tốt. Hứa với ta, có được không?
– Nói xem vì sao ta lại phải làm theo lời lão? Lão đi rồi, ta mừng còn không kịp. Tốt nhất lão nên đi nhanh cho khuất mắt ta!
Trề môi một cái xong hắn xoay người bỏ đi, cố tỏ ra dáng vẻ kiêu căng nhất. Nhưng đi được một đoạn, hắn bỗng dừng lại rồi đưa tay chạm lấy giọt nước vướng trên mặt, ngạc nhiên mà lặng nhìn nó hồi lâu. Từ khi sinh ra, Hoa Vô Tư luôn vô cảm, tuyệt tình và chưa từng cảm nhận được bất kì thứ tình cảm nào khác. Hắn vẫn xem thường hỉ nộ ái ố của nhân loại thứ vô dụng nhất thế gian. Thế mà lúc này, thứ đang lăn dài trên má, cảm giác hụt hẫng đang giày vò tâm can hắn, khiến hắn càng lúc càng bế tắc. Hắn không hiểu. Thật sự không hiểu!?
Hắn quay đầu lại nhìn về phía Y Thánh, nhìn tấm lưng rộng lớn của người, nhìn bạch y bay phấp phới trong gió – cái hình ảnh quen thuộc ấy, suốt cả ngàn năm nay vẫn luôn được nhìn thấy. Nhưng có lẽ sau này, hắn sẽ không còn cơ hội đó nữa. Hắn nghĩ về tương lai, rồi cảm thấy tiếc nuối khôn xiết. Giật mình, Hoa Vô Tư quay đầu trở về, nội tâm hắn bắt đầu mâu thuẫn dữ dội: “Tâm trạng này là thứ gì? Sao cứ bám vào ta mãi vậy?”
Lắc đầu qua lại liên tục để phủi đi cái trạng thái vớ vẩn này, hắn hít một hơi giữ bình tĩnh, rồi gượng gạo:
– Thôi được, ta hứa với lão. Sau này nhất định ta sẽ trở thành một người tốt!
Nghe được những lời như vậy từ đích thân Hoa Vô Tư nói ra, Y Thánh ngẩn đầu nhìn lên bầu trời, ánh mắt dịu dàng:
– Ngoan!
Dứt lời, xung quanh Y Thánh sáng lên sắc bạch quang, đồng thời gió trên đỉnh U Minh cũng đột nhiên ngừng thổi. Không gian trở nên tĩnh lặng hơn bao giờ hết, cỏ cây xung quanh hiện vẻ ủ rũ, chim muôn ngừng hót. Hình ảnh Y Thánh mờ nhạt dần, bầu trời chuyển màu ảm đạm. Trong phút chốc, bạch quang ánh lên chói lòa, Y Thánh biến mất!
Chính ngay tại giây phút này, trong tim Hoa Vô Tư đột nhiên thấy nhói, lồng ngực như muốn vỡ ra, đau đớn tột cùng. Cảm giác hiện tại mà hắn đang mang tệ hơn khi bị trọng thương gấp cả ngàn lần. Hắn không đủ can đảm để nói với Y Thánh lời vĩnh biệt, cũng không đủ can đảm để quay lại nhìn ngài ấy thêm một lần nữa. Khóe mắt cay cay, giọt nước lăn dài trên gương mặt thành dòng này đến dòng khác liên tục. Lòng hắn đau như cắt, nhưng rồi một hồi tâm trạng lại bỗng dưng khó hiểu, đến cuối cùng hắn nhận ra bản thân thật nực cười. Đáng lí lúc này hắn đã tự do rồi, hắn phải cảm thấy vui thay vì cứ đứng ở đây tỏ ra ngu ngốc lâu như vậy.
Gió trên đỉnh U Minh thổi trở lại, thổi mạnh hơn cả lúc trước, sắc trời cũng trở nên quang đãng hơn. Vị thượng thần cuối cùng cũng đã trở về cõi vĩnh hằng, trên Hỗn Mang ngay lúc này, kẻ có tu vi mạnh nhất chính là thần.
~ Bao Đồng công tử ~
Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI
Thanh_Phong
Van phong muot ghe
Trần Khang
Hay lắm
Cảm ơn bạn đã ủng hộ hen! ^^