Mồng ba tháng Tư, năm Dương Hòa [1] thứ tám, 1643. Sáng nay có cơn mưa rào mùa hạ, đường đất có chút lầy lội nhưng nhờ đó mà trời hè bớt oi bức. Từ đầu xuân, quân nội điện đã theo xa giá cùng quân chúa Trịnh vào Nam đánh họ Nguyễn.
Năm trăm quân túc vệ vòng ngoài, sáu trăm Vệ sĩ nội điện vòng trong, đóng ở Bắc Bố Chính [2] đã hơn tháng. Nội điện quân có tên khác là Cấm vệ quân, đa phần chọn người hai xứ Thanh, Nghệ bổ dụng, chia thành chín ty. Trong chín ty này lâu đời nhất phải nói đến Kim ngô vệ và Cẩm y vệ.
Những năm Lê Sơ, Cẩm y vệ trong kinh, ngoài đạo có đến hơn sáu nghìn quân, tuyển chọn từ con cái quý tộc, quan lại, làm thanh gươm của nhà Vua. Từ bảo vệ kinh thành, điều tra án oan, xét hỏi tham quan đến giám sát ngoại sứ điều là việc của quân Cẩm y. Quyền lực mấy năm đó thật khiến người trên kẻ dưới, ai nấy đều phải kiêng dè.
Nhưng rồi vật đổi sao dời, thế đạo hợp tan, vua Lê giờ như con chim trong lồng của chúa Trịnh, các ty quân nội điện lần lượt thành lập, dần áp chế Cẩm y vệ. Đến nay quân Cẩm y vẫn bổ dụng con cái quan lại, quý tộc nhưng quân lực chỉ còn vỏn vẹn bốn mươi người. Quyền hành xưa kia bị tước hết, chỉ còn mỗi việc bảo vệ đức vua.
Tuy danh nghĩa là theo Bệ hạ chinh phạt phương Nam, nhưng không khí trong doanh Cẩm y lại không mấy căng thẳng. Dù sao thì họ cũng biết, việc đánh nhau là của quân phủ Chúa, khi nào đại bại, bị công ngược lên, vua không chạy kịp mà năm trăm quân túc vệ vòng ngoài vỡ trận thì may ra mới đến lượt mình. Tuy nhiên, Cẩm y vệ ở đây không tuần tra thì cũng phát quang, đào hào, đắp lũy,… thời gian nhàn nhã, đánh cờ, đấu vật trước đây ở kinh đô giờ trở nên hiếm hoi lắm.
Thấy quân Túc vệ theo Chúa đánh lũy Thầy, mỗi lần về đều là trọng thưởng, vinh quang sáng lạn, đa số mấy tay Cẩm y cũng chẳng buồn bận tâm. Không phải vì họ là những nhà yêu hòa bình, mà vì đã vào doanh “Áo Gấm” thì xuất thân phần nhiều là con em quý tộc, quan lại muốn kiếm một chỗ việc nhẹ lương cao. Nói trắng ra là muốn “ngồi mát ăn bát vàng”.
Trước ở trong cung cấm an nhàn quên sự đời, nay phải ra nơi hiểm địa làm mấy công việc nặng nhọc khiến không ít kẻ ca thán. Song, than thì than thế thôi, chứ chẳng tay Cẩm y vệ nào muốn mất việc. Dù sao, gia đình cũng đã bỏ ra hơn hai mươi lượng bạc cho khảo quan mua suất, nay có đắp núi, đào sông thì cũng phải nhớ mấy chục thẻ bạc đó mà cắn răng vậy.
Trung tuần giờ Mùi, có mấy thái giám đi ngựa đến doanh gặp ngài Đô chỉ huy sứ. Độ hai khắc sau một viên võ quan được cho gọi vào trướng gấm. Hắn tên là Lê Quý, con trai thứ tư của Chương hầu Lê Ưng, tuổi khoảng độ hai lăm, hiện làm một Phó vệ úy trong Cẩm y vệ, trật tòng thất phẩm.
Lê Phó vệ tuy tuổi còn trẻ nhưng cũng là dạng trải ít nhiều sương gió. Tướng người y lẫm lẫm bệ vệ, hai tay cơ bắp, khuôn ngực nở nang, song vì ưa ăn nhậu mà bụng to như chảo úp. Ấy vậy mà hình hài này so với mãnh tướng xưa cũng giống đến bảy tám phần. Tuy nhiên, ở đời có câu “Đừng trông mặt mà bắt hình dong” khéo thay lại ứng với họ Lê. Một thân phong thái dũng tướng nhưng Lê Quý sau khi lên chức Phó thì không còn muốn tiến thủ, chọn nịnh trên hòa dưới mà an nhàn trong quân.
Trong trướng, quan tổng quản đang cùng một vị hoạn quan trung niên ngồi trên sập cao. Hai người vừa uống chè, nhai trầu, vừa chuyện trò rôm rả. Bên sập còn có hai hoạn quan trẻ tuổi khác đang đứng hầu. Vị Đô chỉ huy sứ này họ Đinh cũng có xuất thân là quan hoạn. Nay thấy mấy vị thái giám trong cung đến thì rất có cảm tình muốn ân cần hỏi hang.
Lê Quý vào trướng chắp tay, cúi người, lên tiếng chào. Thấy người đã tới, Đinh chỉ huy sứ liền giới thiệu với viên hoạn quan bên cạnh:
“Mới nhắc thì đã tới. Giới thiệu với ngài nội quan đây là Phó vệ úy Lê Quý, thuộc tướng đắc lực của ta. Việc lần này cứ yên tâm giao cho hắn!”
Viên hoạn quan nhìn qua Lê Quý, mắt hơi nheo rồi quay sang nhả bã trầu vào ống trên tay một thái giám bên cạnh, nở nụ cười hài lòng, nói:
“Được! Được!”
Đinh Chỉ huy sứ lúc này mới bắt đầu dặn dò công việc cho Lê Phó vệ:
“Cách doanh độ ba mươi dặm [3] về phía Bắc có dòng Loan Giang [4]. Giữa sông có cù lao tên gọi là Tùng, dân làng nơi này làm nghề đúc chuông có tiếng. Vừa rồi đức thánh thượng đặt làng này làm một chiếc chuông thếp vàng, dự là làm lễ vật mừng công Trịnh Vương.”
Dừng một chút, ông tiếp:
“Năm ngày trước có ba thị vệ được sai sang lấy chuông như đã hẹn, nhưng đến nay vẫn chưa thấy về. Lại nói, hai đêm vừa rồi Thánh thượng nằm mộng thấy ông Phỗng trong Thái Miếu [5] đứng dậy đập chuông. Ngài cảm thấy là điềm chẳng lành nên lệnh cho quân Cẩm Y đi điều tra. Ngươi chọn ra năm anh em qua đó xem thử.”
Lê Quý thấy chuyện này đúng là lông gà vỏ tỏi. Sở dĩ mấy thị vệ đi lâu chưa về, có khi là chậm trễ đôi chút tiến độ, Thánh thượng chuyện bé cứ thích xé ra to. Nhưng dù sao, bề trên đã có lệnh thì hắn buộc phải tuân theo.
“Thuộc hạ tuân lệnh!”- Lê Quý chắp tay đáp rồi quay người rời đi. Sau lưng y Đinh Chỉ huy sứ đã tiếp tục cuộc trò chuyện vui vẻ với viên nội quan. Hai người có vẻ cũng không quan tâm lắm đến cái lệnh này. Bản thân họ cũng thấy chuyện này chỉ là sự vụ trễ nải vớ vẩn. Có khi do chuông to mà cử đi ít người nên việc di chuyển bị chậm mà thôi.
Tuy không xem trọng chuyện này nhưng Lê Quý vẫn quay về doanh chuẩn bị áo mũ, binh khí kỹ càng. Cấm quân ở kinh thành có thể nhàn tản nhưng mặt mũi thì nhất thiết phải chú trọng. Mỗi khi ra quân, quần áo phải chỉn chu, gươm giáo phải sáng bóng, trang sức phải hài hòa, không thể xuề xòa làm mất thể diện hoàng gia.
Chỉnh trang xong, đeo gươm vào hông, Lê Quý ôm theo mũ trụ tua đỏ đi đến sân tập. Hôm nay các sự vụ đào hào đắp lũy đã hoàn tất vào buổi sáng nên có lệnh cho nghỉ nửa ngày. Các binh sĩ đang tổ chức một hội vật nho nhỏ ở sân tập. Khi Lê Quý đến, đám đông đang hào hứng cổ vũ cho một kèo vật gây cấn.
Mấy Cẩm y vệ trải cát lên một khoảnh đất trống làm sàn đấu. Bên trên đang có hai đô vật thân hình phốp pháp, mình trần trùng trục, tay bắt vào đầu nhau, ra sức ghì xuống. Sau một chốc, cảm thấy không ăn thua, hai người buông nhau ra. Vừa lùi ra thì một đô vật nhân cơ hội đối phương chưa kịp phòng bị ra đòn chớp nhoáng. Chỉ thấy y đột ngột hạ thấp người lao vào ôm chân đối thủ hất mạnh.
Người bị hất chân mất thế ngã ngửa ra đất. Tuy hơi hoảng nhưng đô vật này cũng rất nhanh liền xoay người nằm úp. Nhưng tư thế ngã vừa rồi đã đủ khiến cho trọng tài tính y thua cuộc.
Người thắng cuộc vui mừng dang hai tay, khoe mẽ cơ bắp, tỏ vẻ không hề mệt mỏi, khí thế hừng hực đợi đô vật tiếp theo lên thách đấu. Lê Quý đứng sau đám đông các binh sĩ theo dõi. Khi hắn đang định bước vào chọn người đi cùng thì một người xuất hiện khiến hắn chú ý.
Người nọ nhìn còn rất trẻ, tuổi chỉ độ mười tám, thân hình không cao to, đem ra so với đa số các binh sĩ trong cấm quân thì có thể xem là gầy. Nhưng bước đi của y vững vàng, cơ bắp rắn rỏi. Lê Quý nhìn cậu trai này có chút quen thuộc. Đến khi nhìn vào mười đầu ngón tay ám đen y mới nhận ra. Thanh niên này là tân binh, tuy mới nhập ngũ năm nay nhưng trên mình đã mang chút danh tiếng. Danh hiệu thứ nhất là “Kim Hoa thiện xạ” [6]. Danh hiệu thứ hai là “rể hờ phủ Quận công”.
Nghe nói cậu chàng họ Phạm tên Siêu, con của ông Phạm Văn Án, từng làm quan tại Lễ bộ. Mùa xuân năm ngoái Siêu tham gia thi “xuất trường” ở xạ trường phủ Bắc Hà đã đạt thủ khoa. Bản lĩnh dùng súng hỏa mai thật như tên, vô cùng siêu việt, bắn mười phát đạn thì trúng tâm hết tám, không trượt phát nào.
Với thành tích như vậy cậu có thể dễ dàng nhận chức Chưởng đội trong quân Túc vệ ở phủ Chúa. Song, không biết cậu chàng lên Kinh ăn nhậu thế nào mà trong cơn say lại trêu phải Thị Giao, ái nữ của Lập quận công Trịnh Tuân, gọi chúa Trịnh Tráng bằng bác ruột. Cũng không rõ cô Công nữ này thường ngày kín tiếng, buổi chiều hôm đó đi đâu lại đụng phải Phạm Siêu. Chỉ biết, người ta thấy Thị Giao vừa bước xuống kiệu võng thì vấp ngã vào lòng họ Phạm say rượu đi ngang qua. Cậu chàng thấy có gì mềm mềm trong tay thì tiện tay bóp mấy cái. Thị Giao la toán lên, muốn dứt ra bỏ đi thì lại bị Siêu nắm vạt áo làm rách.
Sự việc diễn ra quá nhanh, hai võ sĩ và nữ tì đi theo lúc này mới kịp phản ứng, lao vào tấn công gã say rượu. Phạm Siêu có hơi men, tả đột hữu xung không khác gì Võ Tòng [7] đả hổ. Hai võ sĩ đánh hơn mười hiệp cũng không hạ được tên say rượu. Siêu đánh cũng không lại hai người nên bỏ chạy mất. Chuyện này lúc đó rất ồn ào, làng trên xóm dưới bàn tán không thôi. Hay tin, ông Án phải lên kinh ngay trong đêm. Sáng ra, ông vội dẫn thằng con quý tử, đem theo hai chục nén vàng đến phủ Lập Quận công tạ tội.
Chuyện càng phức tạp, khi hai gia chủ gặp nhau lại không căng thẳng như dự tính. Lập Quận công ra đến tận cửa mời hai cha con ông Án vào nhà, bày tiệc thiết đãi như bằng hữu lâu ngày gặp lại. Rượu qua vài tuần mới nói đến việc là ngài Quận công nhìn trúng Phạm Siêu, muốn gả con gái cho y. Lại lấy lý do Siêu đã thất lễ làm con gái mình thất thân, giờ mà không cưới thì chỉ có nước nhảy hồ Tây mới rửa sạch điều tiếng.
Phạm Siêu nào chịu. Cậu chàng phân trần là chỉ có bóp mấy cái, sao mất tân được. Ông Án tức dựng cả râu, đánh thằng con mấy phát rồi quay sang chắp tay với Lập Quận công đồng ý chuyện hôn sự. Phạm Siêu nghe tới đây thì nhảy dựng. Thật không ngờ bản thân chưa từng yêu ai, đường tính ái trống trơn một ngã mà nay mới lên Kinh chưa được ba ngày thì bị một hôn sự rơi xuống đầu. Hôm đó mọi chuyện xảy ra nhanh, cậu chàng lại còn say rượu, chẳng nhớ rõ Thị Giao kia dung mạo thế nào. Giờ bảo nhắm mắt cưới, lỡ dung nhan, tính nết ma chê quỷ hờn thì hắn thật khổ tâm.
Mấy ngày sau họ Phạm mang sính lễ sang làm lễ Nạp Thái [8], người dân hiếu kỳ vây xem rất đông. Bao nhiêu là rương hòm xa hoa cùng đôi chim nhạn lớn, rất xứng với thân phận Công nữ. Đám cưới này sẽ dập tắt các thứ tin đồn vây quanh chuyện thất lễ hôm trước. Nhưng đó là nếu nó có thể diễn ra.
Đến lễ Thỉnh Kỳ [9], Phạm Siêu sống chết không chịu đám cưới này. Sau khi bị ông Án đánh cho một trận, cậu chàng bỏ trốn lên Kinh, lẻn vào phủ Lập Quận công, muốn bàn với vợ sắp cưới bãi hôn. Nhưng khi Siêu vào buồng, Thị Giao nằm sau màn thấy có người lạ vào thì la toáng lên. Mười mấy cận vệ nghe thấy lập tức chạy vào, buộc Phạm Siêu phải nhảy tường bỏ chạy. Một lần nữa cậu chàng vẫn chưa thấy được dung nhan của Thị.
Phi vụ thất bại, Phạm Siêu định trốn vào quân Túc vệ nhậm chức Chưởng đội. Nhưng quân Túc vệ lại thuộc phủ Chúa khả năng bị Lập Quận công truy ra rất cao. Cuối cùng y quyết định xin chuyển vào Cấm quân. Nhờ một người quen trong quân, cậu chàng được sung vào Cẩm y vệ. Lúc đó chúa Trịnh đã chuẩn bị nam tiến, Cấm quân cũng theo đó mà khẩn trương xuất quân phò vua Lê. Phạm Siêu nhờ cuộc chiến này mà trốn được một cái đám cưới.
Lê Quý nhìn Phạm Siêu với con mắt hiếu kỳ. Danh tiếng đã nghe nhưng cũng muốn xem bản lĩnh của cậu chàng. Trong cấm quân phường túi áo giá cơm nhiều nhưng đâu đó vẫn còn những người rất có bản lĩnh. Lý do họ chọn vào cấm quân cũng rất đa dạng, có trường hợp như Phạm Siêu, nhưng đôi khi cũng chỉ đơn giản là tìm việc nhẹ lương cao.
Trên sàn đấu, Phạm Siêu cùng tay đô vật di chuyển vòng tròn, thăm dò lẫn nhau. Hai đôi tay đã bắt mấy lần những vẫn chưa động thủ. Bất thình lình gã đô vật như nhìn thấy sơ hở liền khom người xuống, húc về phía họ Phạm, hai cánh tay cường tráng giang rộng, ôm ngang eo. Thoạt trông thì có vẻ Siêu lộ sơ hở nhưng Lê Quý đã nhận ra, cậu thanh niên này đang “dụ địch”.
Vế đầu của chiêu này là dẫn dụ quân địch vào bãi chiến trường, Phạm Siêu đã đạt được. Tiếp theo, cậu phải thực hiện vế thứ hai: đoạt sự chủ động.
Chỉ thấy Phạm Siêu duỗi hai chân phá thế ôm ở eo, buộc đối thủ bắt choàng lên vai. Toàn thân Siêu đè úp xuống kéo đối thủ xuống theo. Trong chớp mắt, họ Phạm đã đổi được thế trận, thực hiện thành công một chiêu binh pháp. Tay đô vật nằm dưới gồng cứng người, định bật lên nhưng chưa được.
Nhân thời cơ, Phạm Siêu giãy người nhanh như con tôm thoát khỏi vòng ôm của gã đô vật, lăn ngang qua ôm một vai của đối thủ. Đến đây, cậu dùng toàn lực kéo mạnh thân hình hộ pháp khiến tay đô vật lật ngửa, lấm lưng trắng bụng, thua cuộc một cách chóng vánh.
Lê Quý đã xem xong. Trong lúc Phạm Siêu đang ăn mừng thì Lê Quý bước vào sân đấu thông báo lệnh của Đinh tổng quản. Mọi người chợt im lặng. Sau khi Lê Quý nói xong liền bắt đầu chọn người. Ba người đầu tiên là ba binh sĩ thuộc cùng một đội. Những binh sĩ này từng làm quân hầu của ngài Vệ úy, đối với Lê Quý đã có chút thân thuộc. Hai người còn lại được chọn chính là Phạm Siêu và tay đô vật vừa rồi.
***
[1] Đây là niên hiệu của Vua Lê Thần Tông nhà Lê Trung Hưng, được sử dụng từ năm 1635 đến tháng 9 năm 1643.
[2] Bố Chính là tên một địa danh cổ gồm các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Bố Trạch, Minh Hóa và thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Đến giai đoạn Trịnh – Nguyễn phân tranh thì chia làm hai châu là Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, lấy sông Gianh làm ranh giới hai châu.
[3] 1 dặm ~ 444 mét.
[4] Nay là sông Ròn thuộc Quảng Bình.
[5] Thái miếu – nơi thờ cúng các vị vua đã qua đời của một triều đại.
[6] Huyện Kim Hoa thuộc phủ Bắc Hà. Nay thuộc Hà Nội.
[7] Võ Tòng là một nhân vật có võ công cao cường trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am (1296 – 1370). Truyện này kể về sự hình thành và những thành tích của một nhóm người chống triều đình mà trở thành giặc cướp, thường gọi là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.
[8] Lễ Nạp Thái ở đây có nghĩa là “thu nạp sính lễ của nhà trai”. Lễ nạp thái là lễ đầu tiên trong 6 lễ tục của phong tục đám cưới Việt Nam xưa.
[9] Lễ Thỉnh Kỳ là lễ xin định ngày giờ làm lễ cưới.
Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI