COMI
  • TRUYỆN TRANH
  • TIỂU THUYẾT
  • CỬA HÀNG XU
  • ĐĂNG TRUYỆN
Đăng nhập Đăng ký
  • TRUYỆN TRANH
  • TIỂU THUYẾT
  • CỬA HÀNG XU
  • ĐĂNG TRUYỆN
  • FAQ – Hỏi & Đáp
  • Giỏ hàng
  • Liên hệ
  • Về chúng tôi
Đăng nhập Đăng ký
Trước
Tiếp
  1. Home
  2. Dương Hòa Dị Sự
  3. Chương 005
Trước
Tiếp

Thấy trời đã tối, không có đò sang sông, sáu viên Cấm quân quyết định đốt lửa bên bờ sông, nghỉ lại một đêm, sáng mai tiếp tục.

Chọn một chỗ đất khô ráo, bằng phẳng, Trình Chưởng đội nhóm một đống lửa lớn. Mọi người lục tục tháo dỡ hành lý trên lưng ngựa, trải chiếu ra đất quanh đống lửa. Tử Hiến, Phạm Siêu phụ Hữu Dũng lấy gạo thổi cơm, nướng cá muối làm bữa tối. Nhân Cậy và Phan Vũ thì đi cho ngựa ăn.

Ai cũng tất bật, riêng mỗi Lê Quý là nhàn. Y ngồi trên chiếu tháo khẩu súng hỏa mai của mình ra lau chùi. Thời Lê có lệ, binh khí trong quân phải bảo quản kỹ lưỡng, nếu các quan đi kiểm tra mà binh khí ở vệ đội nào han gỉ, không sáng bóng sẽ bị phạt đòn. Nên cho dù có lười, nhưng về khoảng hình ảnh thì Lê Quý rất chỉn chu. Y dự tính, ngày mai Cẩm y vệ sẽ vào chỗ dân cư, khi đứng trước dân chúng thì binh khí, quần áo tuyệt không thể sai sót. Nghĩ vậy, sau khi ăn cơm xong, Quý ngồi nhai trầu, giám sát, nhắc nhở các binh sĩ trau chuốt quần áo, lau chùi binh khí lại một lượt.

Đang mùa hạ, thời tiết tuy nóng bức nhưng vì trại đặt gần bờ sông nên không khí về đêm có phần se lạnh. Sau giờ cơm, mọi người chưa ngủ ngay mà ngồi nhai trầu, tán gẫu. Lê Quý hai mắt khép hờ, kê đầu lên tay nải, bên dưới là binh khí của y. Đám binh sĩ ngồi nói chuyện trên trời dưới đất, lâu lâu lại bỏ thêm củi vào đống lửa đã nhỏ đi ít nhiều.

Phan Vũ đem một cái nanh dài bằng ngón tay cái, bọc đồng phần chân ra khoe với mọi người:

“Hôm trước qua Thanh Hoa, em tình cờ mua được cái nanh hổ các bác ạ!”

Nhân Cậy ngồi kế bên tiện tay giật lấy xem:

“Tao thấy nanh hổ rồi, cách đây mấy năm, cha tao từng đi rừng săn được con hổ lớn dâng cho Bệ hạ. Cái này sao là lạ, mày mua ở đâu đấy?”

Phan Vũ nghe vậy thì gương mặt béo tròn hơi nhăn lại, giật lại cái nanh, nói:

“Mày thì biết cái gì mà hổ với báo. Cái này tao mua mất năm lạng bạc đấy. Thằng cha lái buôn người Ngô [1] còn cam kết trên mồ mả tổ tông nhà nó là hàng thật, có thể tiêu độc, trừ tà, tai qua nạn khỏi!”

Nhân Cậy cười ha hả nói:

“Thế nó có nói đao thương bất nhập, tên đạn bất xâm không?!”

Biết Cậy chọc ghẹo Vũ Béo không thèm nói với y nữa. Phạm Siêu nhìn vào cũng cảm giác cái nanh này hơi nhỏ so với nanh hổ. Nhưng nghe Vũ Béo mất năm lạng bạc để mua thì cũng ngại nói, lỡ y biết bị lừa thật thì mất mặt. Tuy nhiên, Lý Tử Hiến lại không phải người có cái tâm tư tế nhị đó. Y chờm người lại gần Phan Vũ xem xét rồi rất nhanh liền phán:

“Nanh hổ thì ta từng thấy rồi. Mấy tay đô vật có tiếng bình thường cũng hay đeo. Có đợt sới vật còn dùng nanh hổ làm phần thưởng. Cái này nhìn hơi khác, chắc hàng mả rồi!”

Vũ Béo nghe thế thì càng bất mãn, nhìn hai người Cậy và Hiến như lũ nhà quê không biết thế nào là đồ quý. Thời này trong rừng có nhiều hổ, có con lớn đến năm trăm cân từng vào các bản làng bắt gia súc, người dân ăn thịt, gieo rắc kinh hãi khắp vùng. Thợ săn muốn đi bắt hổ phải đi đám đông hơn mười người, băng rừng nhiều ngày, phát hiện dấu vết thì cẩn thận đặt bẫy mai phục, tránh chạm trán trực tiếp. Loài này danh là chúa tể sơn lâm, trên rừng khó có loài nào địch lại.

Trước đây có thợ săn dùng cung, nỏ, phi lao đánh trực tiếp với hổ, dù có bản lĩnh cao cường đến mấy thì sau hai mũi tên bắn đi, nếu không trúng vào đầu, mắt, thì hổ sẽ đến ngay trước mặt. Chỉ một cú tát từ bộ móng vuốt sắc bén có thể tiễn người ta xuống Âm Phủ, lực đạo sợ là chỉ thua mỗi loài gấu. Còn cú táp của hổ thì có thể xem là đệ nhất, chỉ một phát cắn có thể xé bay đầu người.

Thợ săn biết uy của chúa Sơn Lâm nên thường đặt các loại bẫy chùa, bẫy dây [2] mai phục, âm thầm đào hố nằm đợi. Vì hổ có cái linh tính rất nhạy nên dù nhiều giờ hay nhiều ngày trôi qua thợ săn cũng sẽ không rời khỏi hố. Chờ đến khi phát hiện ra hổ trúng bẫy thì mới ra hiệu cho nhau đồng loạt tấn công.

Song, cũng có nhiều vụ hổ trúng bẫy, chân bị trói nhưng vẫn hung tàn chống trả. Sức sống của chúa Sơn Lâm rất mãnh liệt, năm bảy mũi tên găm vào người cũng chưa chắc bị hạ. Về sau có hỏa khí, thợ săn cũng ráng đút lót cho quan binh mà mua một khẩu. Súng đạn uy lực gặp hổ liền có tác dụng lớn, nhưng tốc độ nạp đạn chậm, đòi hỏi tay súng phải điêu luyện, vững vàng, bắn trúng chỗ hiểm như đầu, tim, phổi, nếu không vẫn sẽ rơi vào cuộc giao tranh sống chết. Việc săn hổ cực khổ, nguy hiểm trăm bề nên giá thành không hề rẻ, bất kỳ bộ phận nào trên người hổ đều được tính bằng bạc để trao đổi.

Dù vậy nhưng cái giá năm lượng bạc Vũ Béo trả cho tay buôn người Tàu vẫn có thể bị hớ. Người Ngô sang nước Nam buôn bán có không ít kẻ xảo trá, mà dân chúng nước Nam lại lắm người thật thà, trọng tín, thành ra chuyện bị lừa lọc như này cũng thường gặp.

Lúc này, Trình Hữu Dũng mượn chiếc nanh trên tay Vũ Béo, cầm lên soi xét. Ông nhìn kỹ thì kích thước chiếc nanh to như nanh con hổ mới lớn, nhưng hình dạng thì đúng là có chút khác biệt. Nghĩ không ra, ông cầm qua hỏi Lê Phó vệ.

Lê Quý nãy giờ cũng nằm nghe cuộc bàn tán của thuộc hạ. Hắn mở mắt nhìn một cái liền nhận ra, nói:

“Nanh sói xám!”

Cả bọn nghe thì tròn mắt. Lê Quý lại hờ hững nói tiếp:

“Mà nanh dài gần bằng nanh hổ thế này thì con sói cũng phải to lớn hiếm thấy.”

Trình Chưởng đội nghe xong cũng gật gù. Lúc này ông mới nhớ ra đây đích thị là nanh loài sói xám. Ông hướng Lê Quý khen:

“Ngài Phó vệ thật là kiến thức sâu rộng!” – Đoạn ông quay lại nói với đám binh sĩ -”To như này hẳn là con đầu đàn. Nhưng nanh sói thì cũng chỉ hơn nanh chó thôi, chẳng thể bằng nanh hổ được.”

Ba người Phạm Siêu, Tử Hiến và Nhân Cậy cười phá lên chọc quê Phan Vũ vừa bị một cú lừa. Sau màn nghịch ngợm ở trạm gác hồi chiều, cả ba bỗng chốc trở thành bằng hữu chí cốt. Trình Chưởng đội chẳng nói gì chỉ mỉm cười ngồi lau chùi vũ khí. Lê Quý thì đã quay qua ngủ mất.

Sau chuyện chiếc nanh sói, Phạm Siêu và Tử Hiến lại có cái nhìn mới về Lê Quý. Hai người không ngờ vị Phó vệ úy lười nhác này lại chỉ cần nhìn một cái liền có thể nhận ra thật giả. Một là y hay tiếp xúc với chó sói, điều này thì ít có khả năng do nhà Lê Quý ở đồng bằng. Hai là y khá uyên bác, điều này thì lại khiến hai người phân vân.

Sự thật thì Lê Quý không uyên bác đến vậy. Chẳng qua ngài Chương Hầu, cha y, thường ham thú săn bắn. Từ nhỏ đám con trai Hầu gia đã theo cha tham gia những cuộc đi săn nhiều ngày, thấy nhiều loài, nhiều việc thì kinh nghiệm cứ thế tích lũy.

Chừng hai khắc sau, mọi người chia phiên gác đêm rồi đi ngủ. Vũ Béo nhận lượt gác đầu tiên. Tuy cậu giận tím mặt vì bị tên lái buôn người Ngô lừa, nhưng vì tiếc năm lượng bạc nên cũng không nỡ vứt cái nanh sói đi mà giữ bên người.

Cuối giờ Tí, trời khuya đậm một màu đen kịt. Phạm Siêu vào đánh thức Nhân Cậy để thay phiên gác. Nhân Cậy vừa ngồi dậy thì chợt từ phía dòng Loan Giang phát lên tiếng người la hét, tiếng mái chèo vội vàng khua nước, rồi tiếp đó là âm thanh như có vật gì bị ném xuống sông. Khoảng cách xa, âm thanh không lớn lắm nhưng vẫn thu hút sự chú ý của hai người. Cả hai mò ra sát bờ sông nhìn qua. Nhưng trời tối đen, ánh trăng lúc mờ lúc tỏ không thể soi sáng, hai người căng mắt nhìn mà cũng chẳng thấy gì.

Mới đầu chỉ có một tràn hỗn độn, nhưng về sau càng lúc càng nhiều âm thanh như đồ vật bị ném xuống sông, tiếng nước nổ lên vang rộn. Rồi cũng rất nhanh, mọi thứ lại im bặt như trước.

Phạm Siêu và Nhân Cậy đang đứng lắng nghe thì có ai đó từ sau lưng bước đến vỗ vào vai hai người. Hai binh sĩ giật thót, quay lại thì nhận ra Hữu Dũng. Âm thanh nọ đã đánh thức Trình Chưởng đội, nhưng chưa đủ lớn để phá giấc ngủ của ba tên béo.

Trình Chưởng đội nhìn ra sông rồi nói với hai người:

“Coi chừng là ma da nhảy sông đó, thôi vô đi không nó kéo chân bây giờ!”

Ba người trở vào mà không hề hay biết vừa rồi bên kia sông có năm sáu người thương tích đầy mình, máu chảy đầm đìa, lao mình xuống dòng nước lạnh, nhuộm đỏ cả một đoạn Loan Giang.

Trung tuần giờ Dần [3], trời dần về sáng. Mặt trời chưa ló dạng nhưng màn đêm đã dần vơi bớt sự tối tăm. Gió lạnh từ sông thổi vào khiến Lê Quý giật mình tỉnh dậy. Bên đống lửa đã tắt ngóm, viên Phó vệ uể oải đứng dậy, đánh ánh mắt nhìn xung quanh. Chẳng thấy một tay Cẩm y vệ nào nằm ngủ hay canh gác. Không hiểu bọn binh sĩ đã bỏ đi đâu mà không báo cáo, họ Lê đâm ra bực bội. Y lớn tiếng gọi đám thuộc hạ, nhưng trả lời lại chỉ là sự im lặng kỳ lạ, ngay cả tiếng côn trùng cũng im bặt. Bước vài bước về phía bờ sông, Lê Quý đang hậm hực không biết lũ thuộc hạ đã đi đâu thì chợt có âm thanh rẽ nước vang lên.

Lúc này trên mặt sông cách bờ hơn hai trượng, bỗng xuất hiện một người con gái từ dưới nước trồi lên. Đến khi đôi chân trần đứng trên mặt nước thì người này bắt đầu chầm chậm bước về phía viên Cẩm y.

Người này ngũ quan hài hòa, gương mặt xinh đẹp, nhan sắc quả là một mỹ nhân. Mái tóc đen óng búi hai vòng, tô điểm bằng trang sức vàng, thân người bận viên lĩnh màu lục, thêu hoa văn chỉ vàng rất quý phái, trên cổ đeo vân kiêng lá liễu nạm bạc cùng một chiếc kiềng vàng, dưới hông quấn quầy bơi ngũ sắc, chân đeo lắc bạc. Có một dải lụa trắng bồng bềnh bay quanh người như mây.

Nhất thới Lê Quý như bị hớp hồn. Cảnh tượng trước mắt khiến y cảm giác như gặp tiên nữ, song lại có gì đó ảo mị đến lạ lùng. Thấy cô gái đi gần đến bờ, họ Lê cũng bước về phía dòng sông. Cô gái ở càng gần, càng rõ những đường nét mỹ miều, nhưng nước da lại trắng nhợt, thiếu sức sống, ánh mắt lạnh tanh vô hồn. Thấy chỉ còn cách một trượng, Lê Quý định hỏi danh tính, nhưng vừa mở miệng thì bất ngờ sóng gió nổi lên. Sau lưng cô gái bỗng xuất hiện một xoáy nước. Từ trong xoáy nước nhảy ra một con hổ trắng to lớn dị thường. Trong chớp mắt, con ác thú đã vồ trúng mỹ nhân. Một người một thú rơi xuống sống, nước văng lên tung tóe.

Sau khi màn nước mù mịt lắng xuống, Lê Quý mới nhìn rõ sự việc phía trước. Hàm răng sắc nhọn của con hổ cắm sâu vào vai của cô gái. Hai mắt nàng mở to vô cùng kinh hãi. Máu chảy ra thấm đỏ cả nước sông. Con hổ lúc này đang dừng lại, nhìn chằm chằm vào Lê Quý trên bờ. Lê Quý cảm giác như một con mồi sợ hãi, cứng đờ trước ánh nhìn đó. Chỉ sau vài nhịp thở, con hổ quay đi, vừa giữ nạn nhân trong miệng, vừa bơi ra giữa dòng sông, để lại một vệt máu loang sau lưng.

Lê Quý tuy lười nhác nhưng không phải kẻ nhát gan. Trước mắt thấy con hổ quay đi, y toan lấy súng bắn, nhưng sờ trên lưng trống không mới nhớ súng, gươm đều đang để trên chiếu ngủ. Không còn thời gian, y vội rút thanh chủy thủ đeo sau eo, cắn trên miệng, nhảy xuống sông ứng cứu. Quý cố hết sức bơi theo con hổ, máu nhuộm đỏ mặt nước khiến tầm nhìn của viên Cẩm y dần trở nên khó khăn. Thấy con hổ ngày một gần, đuôi dải lụa loan lỗ máu quấn quanh người cô gái cũng đang nổi bồng bềnh trước mặt, y càng ra sức sải tay bơi. Nhưng rồi, khi vừa nắm được vào tấm dải lụa thì không biết từ đâu xuất hiện những bàn tay lông lá, móng vuốt nhọn hoắc bất ngờ từ dưới nước trồi lên bắt lấy y.

Mặc cho họ Lê vùng vẫy, dùng chủy thủ đâm tứ tung nhưng vẫn bị những bàn tay nhanh chóng lôi xuống lòng sông. Đến khi đứt hơi thì Lê Quý chỉ còn cảm giác lạnh thấu xương.

Mùng bốn tháng Tư, năm Dương Hòa thứ chín, 1643. Sáng nay tiết trời khô ráo. Trình Hữu Dũng là người trực phiên gác cuối, thấy trời sáng ông cũng không ngủ lại mà lấy gạo nấu cơm, chuẩn bị bữa sáng. Mấy binh sĩ ra sông rửa mặt nhưng chẳng thấy gì bất thường, mặt nước vẫn lăn tăn gợn sóng, lau sậy vẫn rì rào lay lắt.

Bất chợt mọi người bị giật mình bởi tiếng la của Lê Phó vệ. Y la to một tiếng rồi vùng dậy ra khỏi chiếu, hai tay vung loạn, mồ hôi đầm đìa. Sau vài nhịp thở Lê Quý mới hoàn hồn, ngồi xuống thở hổn hển. Tử Hiến lại hỏi thăm thì Lê Quý chỉ nói là gặp ác mộng. Y ho khan mấy tiếng rồi cùng mọi người ra sông rửa mặt. Giấc mơ khiến Lê Quý hoảng sợ, nhưng tình tiết lại ảo dị hoang đường, nghĩ đi nghĩ lại một hồi lâu cũng không hiểu, y quyết định không nhớ đến nữa.

Cơm sáng đơn giản xong, đội Cấm quân lên ngựa chạy thêm một đoạn thì thấy cù lao Tùng đã hiện ra trong tầm mắt. Ven sông có một ngôi nhà tranh vách đất. Nhìn vào cái ghe dài hơn một trượng neo dưới sông, Lê Quý lệnh cho Hữu Dũng vào nhà hỏi thuê đò qua sông.

Hữu Dũng đến trước nhà hỏi thăm. Một lát sau ông quay lại cùng một thanh niên tuổi độ mười bảy, mười tám, gương mặt phảng phất nét chất phác. Người nọ thấy Lê Quý ngồi trên ngựa, mình vận quan phục thì liền quỳ xuống, chắp tay chào. Quý gạt tay kêu cậu thanh niên đứng dậy, rồi hỏi thăm.

Cậu thanh niên đứng dậy, chắp tay nói:

“Bẩm quan, con tên là Đỗ Bạ, thầy con là ngư phủ ở sông nì [4]. Ngoài việc chài lưới thì thường ngày cũng đưa đò sang cù lao.”

Lê Quý hỏi:

“Cách nay chừng năm ngày bố con nhà người có đưa ba quan thị vệ qua làng Tùng phải không?”

Văn Cao suy nghĩ chút nói lại:

“Thưa, hình như là có. Nhưng từ bữa nớ đến ni bên cù lao nhiều sự ồn ào lắm ạ!”

Lê Quý hơi châu mày nói:

“Có chuyện gì cứ nói.”

Nghe lệnh, thanh niên họ Đỗ thật thà kể lại:

“Bẩm quan, sau khi ba ngài thị vệ qua sông được hai ngày thì buổi trưa hôm mùng một, bên làng Tùng tự dưng náo loạn cả lên. Ở bên ni vẫn có thể nghe thấy âm thanh la hét. Một chốc sau thấy vài toán người, chủ yếu là phụ nữ, trẻ con, dắt díu nhau ra bờ sông tìm cách vượt sang. Một số thì tìm được thuyền bè chèo đi, một số lội luôn xuống nước. Thầy con thấy vậy mới chèo đò sang cứu lên. Một số đàn ông ở lại trên bờ đánh nhau với một đám đông dân làng.

Đứng trên bờ này khá xa, con nhìn không rõ mấy, nhưng thầy con đưa mấy người bỏ chạy về bờ nghe kể lại rằng người làng Tùng cắn xé, giết chóc lẫn nhau. Đám phụ nữ, trẻ nhỏ đó tuy vô cùng kinh hãi nhưng cũng không nán lại mà đi gấp lên nha môn trình báo.

Sáng hôm sau có một vị gọi là đồng, đồng chi ấy nhỉ… À, Đồng tri châu… [5] dẫn theo mười nha lại mang binh khí sang làng Tùng. Đến canh tư đêm qua lại thấy một đám người chạy ra sông bỏ trốn, nhưng hình như đã bị bắt lại nên chẳng thấy ai thoát được. Thầy con có chèo đò ra giữa dòng ứng cứu nhưng lại bị người ta cắn chảy máu tay, sáng ni thì phát sốt nằm liệt giường, mợ con đang chăm sóc ở trong nhà.”

Đỗ Bạ vừa dứt lời thì Lý Tử Hiến buộc miệng nói:

“Người chứ phải chó đâu mà cắn nhau! Nhưng người cùng làng phải có hiềm khích gì lớn lắm mới đến nổi đánh giết nhau!”

Lê Quý thấy chuyện này có chút cổ quái, một đám dân làng xích mích đánh nhau cũng không phải chuyện gì hiếm gặp, nhưng khi quan quân đến thường sẽ bình định được ngay. Điều lạ là theo lời thanh niên họ Đỗ thì viên Đồng tri châu dẫn nha lại sang đã hơn một ngày mà đêm qua vẫn còn tình trạng người dân bỏ trốn. Chợt trong đầu Lê Phó vệ lóe lên một suy nghĩ: “Hay làng Tùng tạo phản, trở cờ theo giặc, bắt đám sai nha rồi!”.

Nghĩ đoạn, Lê Quý mới quay sang bàn bạc với thuộc cấp. Hữu Dũng nghe xong liền nói ngay:

“Sáng nay thuộc hạ bốc quẻ thấy có một xu rơi xuống chiếu, kẹt lại dựng đứng, không ngã âm, cũng chẳng về dương. Chuyện này cổ quái thiết nghĩ ta nên cẩn trọng, quay về báo cáo.”

Phạm Siêu bác ngay:

“Chưa lâm trận đã lui thì hèn quá!”

Tử Hiến và Nhân Cậy cũng tán thành. Hai người cậy khỏe, gươm sắc, giáo nhọn không xem đám dân làng vào mắt. Cuối cùng Phan Vũ cho ý kiến:

“Em thấy ta có thể sang cù lao, bảo đò neo đợi rồi tiến lên âm thầm xem xét. Có chuyện thì rút ngay!”

Lê Quý cũng có ý này, nhưng dù sao thấy mọi chuyện mờ mịt nên chưa quyết vội. Y nhìn qua phía cù lao, thấy mọi thứ yên ắng, cân nhắc thêm một chốc cuối cùng cũng quyết định thực hiện kế của Vũ Béo. Sáu Cẩm y vệ xuống ngựa, bỏ lại tay nải, đồ dùng, chỉ mang theo hành trang gọn nhẹ cùng binh khí, rồi thuê cậu thanh niên chèo đò đưa sang cù lao.

Chiếc ghe trôi chầm chậm trên mặt nước. Cù lao Tùng ngày một gần. Vùng đất này nằm rất gần cửa biển, rộng chừng sáu mẫu [6], dáng như hạt thóc, dân cư không quá năm trăm, sống tập trung giữa cù lao và dưới chân đồi Đồng. Ngọn đồi là điểm cuối của cù lao với ba mặt giáp biển. Qua hàng triệu năm bị sóng gió bào mòn, ba mặt này hiểm trở, cao hơn mười lăm trượng. Trên đỉnh đồi là nơi tọa lạc của Chùa Kim Khánh, địa hình tương đối bằng phẳng.

Về cái tên của làng cũng có mấy kiểu giải thích. Có người bảo hôm những người đầu tiên di cư lên cù lao, bỗng dưng có sấm nổ giữa trời quang, tiếng to như trống trời điểm binh. Vì sự kiện này mà người già đặt tên cho làng theo âm thanh đó. Tuy nhiên, cũng còn một giai thoại khác.

Chuyện rằng, độ hơn trăm năm về trước, trong số những người đầu tiên khai khẩn lập trại trên cù lao có một ông lão họ Trần thường chống một cây gậy làm từ gỗ Tùng. Càng về tuổi xế chiều ông càng đãng trí, thường nhớ nhớ, quên quên. Một hôm, ông ra giữa làng chống cây gậy xuống đất ngồi chè nước, tán gẫu với mấy lão hữu. Do đãng trí, khi ra về ông đã bỏ quên cây gậy. Sáng hôm sau người ta thấy cây gậy vậy mà bén rễ, sống lại. Cho là điểm lành mọi người để yên cho cây lớn lên. Mấy trăm bận xuân thu trôi qua, ngày nay có một cây Tùng cao lớn mọc sừng sững trên cù lao. Cây cổ thụ trăm tuổi này chính là lý do nơi này có cái tên “làng Tùng”.

Rất nhanh, đò đã cập bến. Trên bờ có một số căn chòi tre lớn dùng làm nơi chưa hàng hóa, mở hàng quán… nhưng tất thảy đều vắng tanh. Xa xa dọc bờ sông là những thửa ruộng nối nhau. Đang vào mùa gieo mạ cho vụ hè thu nhưng trên đồng trống trơn, không một bóng người.

Từ nơi bến đò đến cổng làng là một quãng đường gần hai trăm bộ toàn cát trắng. Rải rác khắp nơi là những thứ vũ khí thô sơ như cuốc, cào, dao, rựa, quần áo rách rưới, đồ đạc linh tinh bên cạnh những vũng máu khô, thấm vào trong cát. Cảnh tượng tan hoang như vừa có một cuộc giao tranh ác liệt.

Đám Cẩm y vệ lên bờ không quên căn dặn Đỗ Bạ neo đò lại đợi. Lê Quý ôm súng dẫn đội tiến lên xem xét tình hình ở bờ sông. Cảnh tượng trước mắt khiến y tin tưởng hơn vào phán đoán dân làng Tùng tạo phản. Nhưng để cho chắc chắn, y cử Phạm Siêu, tay chân nhanh nhẹn, chạy về phía cổng làng xem xét, nếu có vấn đề thì ra hiệu, cả đội sẽ ngay lập tức lên đò rút lui.

Phạm Siêu lén lút áp sát cổng làng, nhưng rất nhanh đã quay lại thông báo cổng làng không đóng, cũng không có người dân hay lính canh gì cả. Lê Quý lại càng thấy khó hiểu, nếu người làng tạo phản thì nên canh phòng cẩn mật mới đúng. Y quyết định dẫn đội tiến vào làng.

***

[1] Ngô ở đây chỉ Trung Quốc.

[2] Bẫy chùa là dựng một cái lồng lớn, đặt mồi nhử. Hổ vào thì cửa sập xuống nhốt con vật. Bẫy dây là các loại bẫy dùng dây thắt thòng lọng đặt trên đất, phủ lá ngụy trang. Hổ đẵm phải sẽ bị trói chân không thể tự do di chuyển.

[3] Bốn giờ sáng.

[4] Phương ngữ: Ni = Này hoặc nay. Nớ = Kia hoặc kìa. Mô = Đâu hoặc nào. Rứa = Thế. Răng = Sao. Chi = Gì.

[5] Đồng tri châu – là phó chức của Tri châu, cùng cai quản một châu, trật tòng bát phẩm. Đầu thời Lê các trấn dọc biên giới đặt chức Phòng ngự sứ, Phó sứ cai quản. Năm Hồng Đức đổi trấn làm châu, đổi Phòng ngự sứ làm Tri châu, Phó sứ làm Đồng tri châu.

[6] 1 Mẫu = 3600m2.

0
0

Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI

Tải COMI từ chợ ứng dụng

Trước
Tiếp

THẢO LUẬN TRUYỆN NÀY

Để lại một bình luận Hủy

You must Register or Login to post a comment.

CÓ THỂ BẠN CŨNG THÍCH

z2017391458930_e2df553be1861fb932748f7c4910d334
Chị tôi là hoạ sĩ nghiệp dư
01/09/2020
AVTMD_Thumb_600x800
Ánh Vàng Trong Màn Đêm
24/08/2020
Kế Hoạch Đào Tẩu_SS01_800x600
Kế Hoạch Đào Tẩu Của Con Gái Phản Diện
13/11/2025
Cassette
Cassette
08/09/2021
  • Trang chủ
  • Về chúng tôi
  • Điều khoản sử dụng
  • Hỏi & Đáp
  • Liên hệ

COMI © 2024 Comicola - Nền tảng truyện tranh bản quyền duy nhất tại Việt Nam.

Cơ quan chủ quản: Công ty Cổ phần Comicola

Giấy xác nhận Đăng ký hoạt động phát hành Xuất bản phẩm điện tử số 2700/XN-CXBIPH do Cục Xuất bản, In và Phát hành cấp ngày 01/06/2022

Giấy Đăng kí kinh doanh số 0313105297 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/1/2015

Đăng nhập

Quên mật khẩu?

← Quay lạiCOMI

Đăng ký

Hãy điền thông tin vào các mục có đánh *

Đăng nhập | Quên mật khẩu?

← Quay lạiCOMI

Quên mật khẩu?

Vui lòng nhập tên người dùng hoặc địa chỉ email của bạn. Bạn sẽ nhận được một liên kết để tạo mật khẩu mới qua email.

← Quay lạiCOMI

Premium Content

is a premium chapter

It will cost you coins to buy this chapter.

Click button buy chapter below to confirm about purchase this chapter, or cancel to close this popup.

Please login to buy this chapter.