Cuối giờ Thìn, mặt trời lên cao, đất Bố Chính vừa vào hè đã có phần oi bức. Những ngọn gió từ cửa biển thổi vào cũng không thể làm bớt đi cái nóng oi ả. Sáu người bận cẩm y đang đi qua cổng làng, thận trọng dò xét tình hình xung quanh.
Làng Tùng có gần tám chục nóc nhà, xen lẫn những ngôi nhà ba gian thường thấy là hai tòa lầu lợp ngói vảy và một cây Tùng cao lớn khá nổi bật. Các thửa ruộng trên cù lao đều tập trung dọc bờ sông bên ngoài tường làng, nhưng vì số lượng eo hẹp nên nghề nông nơi đây không thịnh. Dân làng hơn quá nửa làm nghề chài lưới hoặc thợ phụ trong các lò đúc, thu nhập chỉ đủ sống. Những hộ nào có người nhà làm thợ chính trong lò thì gia cảnh khá giả hơn, nhà cửa cũng có phần khang trang hơn. Riêng hai căn lầu là thuộc về hai gia tộc giàu có sở hữu những lò đúc lớn trong làng.
Ngôi làng trải dài theo hướng từ Tây sang Đông, với một mặt nằm không xa cửa biển nên thi thoảng cũng có giặc cướp đi thuyền vào quấy phá. Vì lý do này mà người xưa đã đắp đất, xếp đá, xây tường rào cao gần năm thước quanh làng, vừa làm tuyến phòng thủ, vừa giúp ngăn lũ.
Lê Quý nhìn trên hai chòi canh nơi cổng làng thấy trống trơn. Từ bờ sông vào đến đây, các dấu tích đánh nhau vẫn rải rác khắp nơi. Ngoài những vật dụng linh tinh, vết chém hằn lên gỗ, đá, mảnh cung tên vỡ và các bãi máu khô thì còn có những mẫu xương, lành lặn có, gãy nát có, nằm la liệt, lẫn trong đất cát. Song, tuyệt nhiên chẳng thấy cái xác người nào. Hơn nữa, ngôi làng yên ắng đến lạ, chỉ thi thoảng mới nghe thấy tiếng chim chóc xa xa.
![]()
Từ cổng làng đi vào vài bước liền thấy một ngôi miếu nhỏ nằm bên Tả. Ngôi miếu một gian hình vuông, rộng hơn một thốn [1], được dựng chủ yếu bằng gỗ, bên trên lợp ngói vảy trông khá cổ kính, có vẻ đã tôn tại ở đây từ rất lâu về trước. Nền miếu thấp hơn hẳn các kiến trúc xung quanh. Các nhà trong làng đều đắp nền cao để phòng lũ lụt. Mặt tiền miếu không có cửa, hai bên đặt hai tượng nghê nhỏ. Trên treo một bảng gỗ đen ghi “Thần Miếu Loan Giang”. Bên trong miếu, bàn đổ, tượng ngã như vừa trải qua một trận cướp phá. Trước cửa có một vệt máu kéo dài vào trong rất ghê rợn.
Tuy nhiên, khi nhìn vào bức tượng thần nữ ngã lăn trên án thờ, Lê Quý cảm giác trang phục này rất giống với nữ nhân trong mộng tối qua. “Có khi nào thần sông báo mộng cho ta? Nhưng báo mộng chuyện gì?” – Nghĩ không ra, Lê Quý đành gác chuyện nọ qua một bên.
Tiếp sau ngôi miếu là một khu đình họp chợ, loại kiến trúc phổ biến này còn có tên gọi khác là quán chợ. Kế đến là những ngôi nhà có mặt tiền quay ra đường, hơn phân nửa là các cửa hàng. Xen kẻ rải rác là sạp hàng, giếng nước, nhà kho… Những công trình này trải dài hai bên đường tạo ra một lối đi lớn ở giữa kéo dài hơn trăm trượng, thẳng đến chân đồi Đồng. Đây là con đường chính của làng Tùng, thường được dùng làm khu vực chợ phiên, mua bán, còn gọi là đường Chợ.
Thấy con đường vắng hoe, Lê Quý lệnh cho toàn đội tản ra xung quanh tìm hiểu tình hình.
Bên tay phải chợt có một ngôi nhà thu hút sự chú ý của y.
Đây là một căn nhà ba gian, điển hình cho kiến trúc dân cư ở làng Tùng. Trước nhà có cổng rào đơn giản. Mặt tiền nhà rộng chừng mười lăm thước [2], nền nhà đắp bằng đất cao đến hơn ba thước, bề mặt lót gạch nâu, tường xây sử dụng gỗ và một ít gạch, ba ô cửa bị đóng kín bằng những tấm gỗ dày. Điều thu hút Lê Quý là mái nhà này được lợp bằng ngói đất. Thời này chỉ có gia đình quan lại, chức sắc mới được dùng mái ngói, lại tùy loại ngói mà phân chia phẩm hàm. Dựa vào loại ngói bằng đất giản tiện của ngôi nhà thì đây hẳn là nơi ở của một viên chức sắc trong làng.
Từ ngoài có thể thấy ngôi nhà đã bị một trận hỏa hoạn làm cháy một phần bên cánh Hữu. Điều này khiến hơn phân nữa mái ngói cũng một góc nhà hoàn toàn đổ sập. Nhìn qua một chút, Lê Quý quyết định theo ô cửa bị cháy vào trong xem xét.
Viên Phó vệ tìm quanh vẫn không thấy gì ngoài đồ đạc lộn xộn và tro bụi khắp nơi. Bỗng có tiếng loạt xoạt vang lên từ phía sau ngôi nhà. Ngước nhìn qua chỗ mái ngói bị sập Lê Quý trông thấy năm sáu con chim đang vỗ cánh bay đi. Đám chim này có nhiều loại, từ chích chòe, họa mi đến cu gáy, bồ câu rất đa dạng.
Vội bước ra phía sau ngôi nhà, Lê Quý phát hiện một cánh cửa hậu không khóa. Y bước qua cửa hậu thì đến một khoảnh vườn được bao bọc bằng hàng rào tre. Trong sân vườn bày trí nhiều thứ, từ vài khóm hoa, hai cây cau, một cây lựu đến đồ vật linh tinh như bàn đá, sào phơi, lu nước cùng một giàn bầu lớn cao độ nửa trượng ở giữa sân. Mọi vật trong này có vẻ như nếu không bị ngã đỗ thì sẽ sứt mẻ đôi chỗ. Nơi mặt đất dưới chân giàn bầu nằm la liệt hơn chục chiếc lồng chim rỗng cùng những vệt máu trộn với lông vũ đủ màu sắc. Nhưng đặc biệt hơn cả là giữa nhưng chiếc lồng có một cô gái.
Trời gần về trưa, nắng mùa hạ như lửa, nhưng trong lòng Lê Quý không biết từ đâu lại có cơn gió Xuân thổi về lồng lộng. Ngay khoảnh khắc này viên Cẩm y vệ như quên hết mọi thứ xung quanh. Trong mắt y chỉ còn hình ảnh một cô gái tuổi ngoài đôi mươi, tóc dài cột đuôi, nước da bánh mật, gương mặt trái xoan, ngũ quan xinh đẹp.
Vua Thánh Tông từng có thơ khen con gái Lý Nhân, Hà Nam mang mỹ sắc qua bài “Lỵ Nhân nữ sĩ”.
“Cao đường xuân cận vũ phong hàn,
Tần nữ Yên cơ tiếu ngữ hoan.
Khê thượng thiên hồng phương tứ noãn,
Du phong vô ý bất tương can.” [3]
Nhưng với Lê Quý lúc này, đừng nói cô gái nước Tấn, Yên hay Hà Nam mà có ở đâu cũng không đẹp bằng cô nương trước mặt.
Nàng mặc một tấm áo bàn tý thêu hoa bên ngoài giao lĩnh trắng, bên dưới quấn thường xanh, trên lưng đeo một tay nải. Như vừa làm xong việc gì, cô gái vừa nhìn trời vừa phủi hai tay vào nhau. Phủi tay xong, định rời đi thì ánh mắt nàng bắt gặp Lê Quý không biết từ đâu xuất hiện, đang nhìn mình chăm chăm.
Bốn mắt nhìn nhau chợt khiến Lê Quý như bị hút vào trong làn thu ba gợn sóng. Trước giờ họ Lê chưa từng có thứ cảm giác ngẩn ngơ lạ lùng như lúc này. Y ăn chơi ở Kinh thành cũng là hạng có tiếng. Chuyện tình trường, trêu hoa ghẹo nguyệt với các hoa khôi ở thanh lâu cũng không phải ngày một ngày hai, nhưng hôm nay là lần đầu tiên y nhìn một nữ nhân mà lòng cảm thấy lân lân, mơ hồ muốn nâng niu, che chở.
Lê Quý đang mơ mộng đến cảnh mang võng hoa, lộng đỏ đến rước nàng về dinh thì chợt y nhận ra gương mặt của nữ nhân trước mặt rất giống với cô gái trong mộng đêm qua. Tuy quần áo, tóc tai hay nước da có khác biệt nhưng đường nét ngũ quan lại khá tương đồng.
Đang mơ hồ phân vân thì bất thình lình trong mắt họ Lê xuất hiện một mũi dao đâm tới. Hoảng hồn, y chỉ kịp “Ớ” lên một tiếng thì mũi dao đã đến trước mặt.
![]()
Lê Quý trông thì có vẻ làn nhàn nhưng phản xạ lại khá tốt. Nháy mắt y đã xoay người né mũi dao ngay đầu. Tay trái bật chém ra đánh vào cổ tay đang cầm dao của cô gái, đẩy hướng đâm của dao lên trời, rồi chộp vào tay còn lại của cô kéo mạnh.
Đang đà đâm thì bị kéo mạnh khiến cô gái quay nửa vòng, xoay lưng về phía Lê Quý. Song, thân thể cô nàng lại có vẻ linh hoạt. Trong tình trạng bị quay ngược người, tay cầm dao của nàng vẫn có thể vung lên, đảo đầu, hướng đùi kẻ sau lưng đâm xuống.
Tuy thân thủ của cô gái có vẻ nhanh nhưng vẫn không thể thoát khỏi tay dày dạng như Lê Quý. Nhanh như cắt, tay phải của y thả rơi khẩu súng hỏa mai, tạo hình bàn đao chém xuống cổ tay cô gái chặn nhát dao. Dao vừa dừng, y liền co tay thành nắm đấm, đánh mạnh vào cổ tay khiến bàn tay cô gái tê rần, buông rơi con dao găm xuống đất. Cuối cùng, Quý bẻ luôn cánh tay còn lại của nàng ra sau.
Chuyện xảy ra rất nhanh, Lê Quý từ mộng cảnh uyên ương chuyển thành mỹ nữ giết người trong nháy mắt, rồi chỉ một chút sau lại thành không chế tội phạm ám hại quan viên triều đình. Cả quá trình y chưa kịp nói lời nào. Giờ mới có cơ hội, liền hỏi:
“Cô là ai? Cớ sao lại muốn giết ta?”
Đứng sát sau lưng cô gái, Lê Quý phát hiện một mùi thơm nhè nhẹ, vừa như hương hoa mà lại như thảo dược, từ người cô gái nhẹ nhàng lan vào khoang mũi khiến y cầm lòng không đặng, bèn hít một hơi hưng phấn. Cô gái cựa quậy, vùng vẫy nhưng cuối cùng cũng khuất phục trước sức mạnh. Song, Quý cũng có lòng “thương hoa tiếc ngọc” nên không dám siết chặt tay.
Bỗng Tử Hiến không biết từ đâu lù lù xuất hiện nơi cửa hậu, trong thấy cảnh hai người thì không hiểu ất giáp gì. Ban nãy, nhóm Cấm quân chia ra, Tử Hiến đi lục soát ngôi nhà kế bên, đến khi nghe Lê Quý kêu “Ớ” mới chạy sang xem. Thấy Tử Hiến, Lê Quý liền lệnh cấp dưới phụ mình trói hai tay cô gái lại.
Cô gái thấy Lê Quý có thêm đồng bọn, biết vùng vẫy vô ích mới lên tiếng:
“Chỉ là hiểu lầm thôi. Tôi là lang y… Làng Tùng có quỷ nên tôi mới tưởng lầm ngài là bọn chúng…”
Lê Quý khó hiểu, nghĩ thầm – “Ban ngày ban mặt thì làm gì có quỷ ma gì, hay cô nàng ý ám chỉ bọn thổ phỉ, phản loạn?”
Lê Quý nói – “Ta là Cẩm y vệ của Hoàng Thượng. Quỷ ma gì ở đây?… làng này có phải tạo phản rồi không?”
“Không… Ở đây thật sự có quỷ…”
Nữ lang y đang nói thì bị một tiếng huýt sáo cắt ngang. Lê Quý và Tử Hiện nhận ra ngay đây là ấm hiệu gọi nhau của Cấm quân. Hai người quyết định nhanh chóng ra hội cùng đồng đội.
Trước khi đi, Lê Quý cúi xuống nhặt khẩu súng hỏa mai của mình và con dao găm của cô gái. Tình cờ, y nhìn thấy một chiếc khăn tay rơi bên cạnh nên nhặt lên xem. Trên chiếc khăn lụa trắng có thêu hình một con chim Đỗ Quyên dang cánh, lại phẩn phất mùi hương của cô gái, Lê Quý không nghĩ nhiều, nhét luôn vào lòng ngực rồi đi ra tìm thuộc hạ.
Viên Phó vệ ra đến nơi thì thấy mọi người đang đứng tụ lại giữa đường Chợ. Y lại hỏi chuyện thì Trình Chưởng đội chỉ tay về phía trong làng.
Ở giữa làng, cách nơi bọn Lê Quý đang đứng tầm trăm bộ, lúc này xuất hiện mười mấy người đang đứng rải rác kéo dài đến cuối làng. Những người này ăn vận có phần xốc xếch, rách rưới, già, trẻ, nam, nữ đủ cả. Nhưng kỳ lạ là bây giờ đang lúc nắng nóng về trưa mà đám người nọ cứ lờ đờ, đứng ngửa mặt lên nhìn trời. Lê Quý trong lòng thắc mắc “bộ không thấy chói mắt sao?”
Cách đội của Lê Quý độ hơn năm chục bước là một người phụ nữ đứng quay lưng, mặt thị ngước lên trời khiến không thấy rõ được dung mạo. Lê Quý vừa lệnh mọi người tiến lên thì nữ lang y có vẻ hoảng sợ, liên tục cựa quậy, nhỏ giọng, gấp gáp nói:
“Đừng đến gần… quỷ, quỷ…mau chạy!… mau chạy!”
Đám Cẩm y vệ thấy mọi thứ không có gì nguy hiểm, không hiểu sao cô nương này lại kinh sợ đến vậy. Mặc kệ cô nàng, cả bọn vẫn áp giải cô gái tiến về phía người phụ nữ. Vũ Béo đi đầu, theo sau là ba người Tử Hiến, Nhân Cậy, Trình Hữu Dũng, hàng cuối là Phạm Siêu, Lê Quý và cô gái. Khi còn cách độ hai chục bước chân, Phan Vũ ôm đao đi lên mấy bước lớn tiếng hỏi:
“Cẩm y hành sự! Cô kia, cho hỏi thăm!…”
Vừa nghe tiếng Vũ Béo thì toàn thân người đàn bà giật bắn, nhanh như cắt quay lại nhìn. Khi này mọi người mới nhìn rõ tướng mạo của bà ta. Người này tuổi độ trung niên, thân người không mập không ốm. Áo xống màu nâu trên người vô cùng xốc xếch, từ trên xuống dưới còn dính loang lổ máu đen. Mái tóc dài búi chúy kê, bọc trong tấm vải xanh, bị bung ra mấy lọn khiến đầu tóc trông rất luộm thuộm. Hai mắt bà ta trắng dã như người mù. Quay lại thấy đám người Lê Quý, người đàn bà có vẻ tuyệt vọng, thì thào nói:
“Cứu tôi với… cứu… cứu với… ”
Lời người đàn bà chưa dứt thì một cảnh tượng quái dị diễn ra trước mắt đám Cấm quân. Từ thân người đến gương mặt bà ta bất chợt cứng đờ, hai mắt đứng tròng, khuôn miệng mở rộng rồi bắt đầu co giật. Trông bà ta như đang cố gắng ngậm miệng lại nhưng bị vật gì rất cứng chèn chặt. Chỉ một chốc sau, người đàn bà bắt đầu nôn ra một lượng lớn máu đen, chảy xuống ướt cả một mảng xiêm y. Song, chuyện kinh hãi hơn lúc này mới xuất hiện.
Trên trán người nọ dần hiện ra một vết thâm nằm ngang, to bằng ngón tay. Vết này ngày càng đậm màu, trong nháy mắt đã hóa đen kịt như mực tàu. Tiếp đến, gương mặt bà ta bắt đầu vặn vẹo đau khổ. Những vệt đen trong như mạch máu ẩn hiện kéo dài lên đến mặt. Rồi bất thình lình hai bên hàm mọc tua tủa ra những sợi lông trắng. Tốc độ mọc rất nhanh, chẳng mấy chốc đã tạo ra hai mảng lông kéo dài từ tai đến gần cằm. Móng tay, móng chân mọc dài ra nhọn hoắc.
![]()
Mọi người còn chưa kịp phản ứng thì người đàn bà đã phát điên. Bà ta bò xuống đất, gào lên như loài dã thú, rồi nhanh như một con báo búng người lao vào đám Lê Quý. Chỉ trong chớp mắt người đàn bà đã áp sát đến nơi. Phan Vũ đứng gần nhất, thấy người kỳ dị bất ngờ lao đến thì bị giật mình, hai tay theo quán tính giơ đao ra phía trước. Người nọ như mãnh thú nhảy chồm lên há miệng định cắn vào mặt Vũ Béo nhưng bị thanh đại đao cản lại. Không cắn được mặt, bà ta liền ngoẹo cổ sang bên cắn vào mấy ngón tay béo múp của y.
Cả đám Cẩm y vệ bị bất ngờ, Lê Quý vội kêu lên:
“Mau bắt con mụ này lại!”
Vũ Béo bị tấn công la lên oai oái, vội dồn sức vào tay trái đẩy mạnh người đàn bà ngã ra đất. Miệng bà ta vẫn cắn chặt khi bị hất văng nên đã rứt luôn một lóng tay của Vũ Béo nhai nhồm nhoàm. Phan Vũ đau thấu xương, ôm bàn tay phải lùi ra sau. Nhưng cũng nhanh như lúc bị hất xuống, người đàn bà bật dậy ngay, tiếp tục lao vào Vũ Béo.
Tử Hiến ở sau lưng thấy vậy liền nhanh tay trở đầu giáo đâm tới. Phần cáng gỗ của ngọn giáo dài lướt qua vai Vũ Béo đâm mạnh vào ngực người đàn bà khiến bà ta bị bức lùi lại.
Một đòn này đánh ra khá chính xác. Giáo binh trong Cấm quân thường được huấn luyện để trấn áp kẻ gian. Cáng giáo đánh vào ngực có thể khiến đối phương tức thở, ngã quỵ. Nhưng ở đây sự việc lại rất khác lạ. Người nọ nhận một đâm nhưng dường như không bị ảnh hưởng gì, vẫn tiếp tục vùng lên nhào tới. May là có ngọn giáo ngăn lại, chưa thể tiến lên, song, Tử Hiến cũng rất chật vật mới cản lại được.
Trình Hữu Dũng mặt mày tương đối hãi hùng nhưng cũng huy giáo đánh tới. Chỉ thấy ông ta dùng cán giáo gạt mạnh vào chân khiến người đàn bà ngã ngang ra đất. Trên đất, người đàn bà vừa trở mình thì bị hai giáo thủ bước lên dí cáng giáo vào hai vai ép bà ta nằm dưới đất.
Sự tình càng kỳ lạ khi một người phụ nữ đã vào tuổi trung niên, dáng người thấp bé mà sức lực lại kinh người. Dù hai cáng giáo ấn vào vai nghe xương kêu răng rắc nhưng bà ta vẫn liên tục gào thét, vùng vẫy kịch liệt, khiến hai người đàn ông cao to phải dồn sức.
Trình Chưởng đội thấy người đàn bà nhìn quá kinh dị thì sợ hãi nói:
“Cái này… cái này chắc bị quỷ ám hay ma nhập rồi!”
Đoạn, ông chuyển sang lẩm bẩm tụng kinh Phật. Nhưng Tử Hiến đứng kế bên lại thấy kinh kệ hình như chả có tác dụng gì.
Đằng sau, nữ lang y lại tiếp tục giục mọi người bỏ chạy. Lê Quý nghe thấy thì cũng có chút nôn nao trong lòng. Tuy nhiên, cảm giác mọi chuyện vẫn trong tầm kiểm soát, viên Phó vệ tiếp tục tập trung quan sát tình hình.
Lúc này, khi người đàn bà đã tạm thời bị khống chế thì đám Cẩm y vệ mới nhận ra những người đứng rải rác phía xa đang gào thét chạy tới, dáng bộ chẳng khác người phụ nữ đang bị khóa dưới đất là bao. Dẫn đầu là ba người đàn ông hình dạng kinh dị hơn thảy. Người mất tay, kẻ bị thủng một lỗ lớn ở ngực mà vẫn sống, lại còn di chuyển không hề chậm chạp. Bọn họ càng đến gần mùi tanh thối của tử thi càng nồng nặc.
Thấy người đến, Phan Vũ vội dùng vải buộc sơ bàn tay, chịu đau chuẩn bị vũ khí cùng Nhân Cậy phòng thủ. Hai người tay đao tay khiên chạy ra trước hai giáo thủ lập hàng rào. Ba gã đàn ông quái dị lao đến liền bị hai tấm khiên lớn vẽ hình mặt hổ cản lại. Cậy và Vũ kê khiên ra trước cản những cú tát từ đôi tay của mấy người đàn ông. Tay còn lại cầm ngược sóng đao, đập liên hồi vào ba người.
Lê Quý thấy mấy người quái dị này như hóa điên, miệng trào dịch như máu, đánh không biết đau thì bắt đầu căng thẳng, chĩa súng về phía trước hô lớn:
“Bọn ta là Cẩm y vệ, các ngươi tấn công quan quân của bệ hạ là tội tạo phản. Còn không dừng thì ta bắn!”
Lê Quý hô xong mà không thấy mấy người này có phản ứng gì, phía sau người làng kéo đến ngày càng đông. Y toát mồ hôi, chĩa súng lên trời nổ một phát đạn cảnh cáo. Song, phát súng không những không hề hấn gì mà càng khiến tiếng gào thét nổi lên vang vọng khắp xung quanh.
Viên Phó vệ thấy chuyện diễn biến quá nhanh, trong phút chốc sẽ mất kiểm soát, nên vội lệnh toàn đội rút lui. Lệnh vừa ra, y liền vác súng quay đầu chạy ngay. Phía trước nữ lang y đã nhân thời cơ chạy sớm mấy bước.
Trình Chưởng đội nghe lệnh cũng liền bỏ Tử Hiến quay đầu chạy tuốt. Vừa chạy vừa không quên tụng “Nam mô A Di Đà Phật”. Tử Hiến thấy một mình mình đỡ không nổi người đàn bà nên hô to gọi hai người Cậy, Vũ bỏ chạy rồi cũng vác giáo chạy theo hai vị trưởng quan.
Người đàn bà vừa thoát ra liền bật ngay dậy, nhào tới từ sau lưng Nhân Cậy và Phan Vũ. Bà ta nhắm cái cổ béo mập của họ Phan mà cắn. Khi cái khuôn miệng đỏ lòm của người đàn bà còn cách gáy Vũ Béo trong gang tấc thì bất thình lình bị một cái cáng súng đập vào đầu, khiến bà ta ngã qua một bên. Cáng súng vừa rồi là của Phạm Siêu. Cứu được hai người Siêu vội giục cả bọn bỏ chạy.
Nhân Cậy, Vũ Béo cùng hiệp lực thúc mạnh hai tấm khiên đẩy ngã ba người đàn ông rồi cũng quay đầu bỏ chạy theo đồng đội.
Nữ lang y chạy đầu tiên với hai tay bị trói sau lưng, nhưng chẳng mấy chốc đã bị đám Cấm quân vượt qua. Mọi người vừa chạy đến gần cổng làng thì cô nàng bị người đàn bà đuổi kịp, chụp chân, ngã xuống đất. Đang lúc gay go thì chợt có tiếng súng nổ vang lên, khói trắng túa ra. Phát súng bắn trúng vào giữa ngực đẩy người đàn bà bay giật ra sau. Nữ lang y thoát chết, nhưng hai tay bị trói, nhất thời không đứng lên được, nàng dùng sức lết về phía trước.
Người vừa nổ súng là Phạm Siêu. Súng hỏa mai dùng đạn kim loại, ở khoảng cách dưới năm mươi bộ sức công phá rất lớn. Khi bắn trúng mục tiêu thì phía ngoài chỉ để lại lỗ đạn nhỏ bằng đầu ngón tay, nhưng nếu viên đạn xuyên phá qua cơ thể thì sẽ trở nên biến dạng, để lại lỗ thủng to như miệng chén. Phát đạn trong khoảng cách gần này của Siêu hẳn đã phá nát tim, người đàn bà không thể nào sống sót. Tiếng súng khiến mọi người bất giác quay lại nhìn.
Nhưng vừa nhìn một cái, cả đám đã phải mở to hai mắt kinh ngạc. Người đàn bà ấy vậy mà vẫn có thể bật dậy, bò hai tay hai chân trên đất, miệng gào lên rồi tiếp tục nhảy lên tấn công nữ lang y. Song, lần này bà ta chưa kịp áp sát thì một phát súng khác đã vang lên. Viên đạn đâm thẳng vào đầu khiến người đàn bà bật ngửa ra sau, không cựa quậy gì nữa.
Phát súng này là do Lê Quý bắn. Sau khi bắn một phát đạn chỉ thiên, viên Phó vệ vừa chạy vừa tranh thủ nạp đạn. Khi nữ lang y bị kéo ngã, Phạm Siêu đã nhanh tay bắn phát đạn vào tim người đàn bà. Lúc Lê Quý đang chạy lại định đỡ cô gái thì phát hiện người đàn bà bật dậy tấn công nên đã bắn phát súng kết liễu. Thu súng về y vội đỡ cô gái đứng lên rồi cả bọn tiếp tục chạy ra khỏi làng.
Từ nãy đến giờ, trong đầu Lê Phó vệ dấy lên vô vàn nghi vấn. Vừa rồi chứng kiến người đàn bà hóa điên cứ như bất tử khiến y vừa kinh hãi, vừa mờ mịt. Chạy đến cổng làng, đám Cấm quân nhìn lại lần nữa, thấy người đàn bà vẫn nằm bất động dưới đất, thì mới dám tin là bà ta đã chết. Mọi người đưa mắt nhìn nhau rồi đồng loạt hướng về Lê Quý như hỏi chuyện này là thế nào.
Lê Quý cũng đành chịu, giờ y chỉ muốn mau rời khỏi đây nên lệnh mọi người tiếp tục chạy về bờ sông lên đò rút lui, đừng để đám sau lưng bắt kịp.
Cả nhóm bảy người hộc tốc vác binh khí chạy ra sông. Vừa ra khỏi cổng làng đã thấy ở xa thuyền Đỗ Bạ đang neo đợi bên bờ. Trình Chưởng đội dẫn đầu chạy như bay. Âm thanh kêu gào càng lúc càng lớn, tràn ngập khắp không gian. Lê Quý chạy sau Hữu Dũng chợt chú ý thấy Đỗ Bạ ở trên thuyền, một tay cầm mái chèo, một tay chỉ trỏ búa xua, hô hoán gì đó không nghe rõ nhưng có vẻ khẩn cấp lắm. Cảm giác có vấn đề, Lê Quý chạy chậm lại, khiến cả đám phía sau cũng chậm theo. Riêng có Vũ Béo là cắm đầu cắm cổ chạy theo Trình Hữu Dũng.
Nhưng Trình Chưởng đội chưa chạy được thêm ba bước thì từ hai bên Tả, Hữu xuất hiện hai đám đông vài chục người lao nhanh về phía con đò. Hai phát súng vừa rồi hẳn là đánh động những người quanh cù lao, họ kéo ra từ khắp nơi trên bãi sông.
Thấy hai đám người này bộ dạng nửa bò nửa chạy, điên cuồng khát máu, ghê rợn hệt như người đàn bà ban nãy, cả bọn đều thất kinh. Tốc độ của họ khá nhanh mà đám người Lê Quý hãy còn cách thuyền một quãng xa, sợ rằng không kịp nên năm người Lê Quý, Tử Hiến, Siêu, Cậy và nữ lang y đều đứng lại chần chừ.
Phía trước Vũ Béo đã cách xa đồng đội một đoạn hơn chục thước, Trình Chưởng đội thì còn xa hơn. Khi Vũ Béo phát hiện người làng kéo đến từ hai bên thì chân cẳng bất giác xoắn vào nhau, ngã bịch xuống đất, rơi cả đao. Trình Hữu Dũng ở phía trước nhận ra y còn cách thuyền một đoạn mà bản thân đã rơi vào giữa hai mũi địch. Ngay tức khắc người đàn ông hơn năm mươi tuổi nghiêng người sát đất, xoay người một vòng, chân xoạc vào cát bắn lên tung tóe, rồi vụt chạy ngược lại. Trên đường, ông còn tiện tay kéo theo luôn Phan Vũ to béo vừa bị ngã. Một màn này của Hữu Dũng thật khiến mọi người ấn tượng, tuổi già mà sức không già.
Trong khi Hữu Dũng cùng Vũ Béo chạy ngược lại, Lê Quý hô lớn về phía Đỗ Bạ ra hiệu kêu cậu chèo thuyền rời đi tự cứu lấy thân. Nói đoạn, thấy đám sau lưng vẫn là ít hơn hai đám trước mặt, nhóm bảy người hợp lại chạy ngược vào trong làng Tùng. Sau lưng họ là lũ lược mấy chục nam, phụ, lão, ấu rồ dại, máu me, thương tích cùng khắp, kêu gào rượt theo.
Vừa vào làng, thần kinh Lê Quý lại giật thêm một phát, trước mắt y là một toán người làng đông hơn lúc nãy mấy lần. Lê Quý lúc này vô cùng căng thẳng. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời binh nghiệp của mình y phải đối đầu với cục diện lưỡng đầu thọ địch như thế này. Y đeo súng ra sau lưng, rút gươm, lệnh cho toàn đội tấn công. Đám Cẩm y vệ nghe lệnh, đồng loạt rút vũ khí ra khỏi vỏ, lao vào đám đông nơi cổng làng mở một đường máu.
Vũ Béo cùng Nhân Cậy lao lên trước. Qua vài chiêu, đám người quái dị ở hàng đầu đổ ngã hết mấy mạng. Kẻ thì bị khiên húc ngã, kẻ lại bị đao chém trúng. Hai người Siêu và Quý ở sau dùng gươm đánh lên, sau lưng hai người là nữ lang y. Cuối cùng là Trình Chưởng đội và Tử Hiến dùng độ dài của ngọn giáo đâm với ra trước.
Nữ lang y ở sau lưng nhắc Lê Quý tấn công vào đầu. Lê Quý nhớ lại phát bắn người đàn bà khi nãy cũng ngộ ra ít nhiều liền lệnh cho đồng đội nhắm vào đầu đối phương mà tấn công. Lệnh này vừa ra, đám người quái dị chịu thương vong lớn hơn hẳn.
Tuy nhiên, trước sau người làng đông phải đến cả trăm mà Cấm quân chỉ có sáu người, dù võ công siêu quần cũng không thể chống đỡ nổi. Sau một hồi, thế thủ dần bị phá vỡ, buộc đám Lê Quý phải lùi dần sang phía Tả của cổng làng.
Đội hình hàng dọc giờ chuyển sang hình tam giác. Tử Hiến, Hữu Dũng quay ra sau chắn hậu. Lê Quý và Phạm Siêu lúc đầu ở giữa thì cũng trở thành tiền tuyến chống đỡ một mặt. Hai bộ binh mang khiên giữ một mặt còn lại. Đội hình này che chắn cho nữ lang y ở trung tâm.
Trong cuộc hỗn loạn, Lê Quý bị mấy người cắn trúng vào vai nhưng may nhờ giáp lót mà tránh được thương tích. Y biết không thể trụ được lâu hơn nữa. Nhìn dáo dác xung quanh, ánh mắt y chú ý đến ngôi miếu và cái quán chợ ở phía trước.
Nhà trong làng dù nghèo hay giàu đều xây nền cao ít nhất ba thước để phòng lũ lụt. Nhưng nền ngôi miếu lại thấp hơn các kiến trúc khác trong làng khá nhiều, khiến chiều cao của nó tương đối thấp so với các công trình xung quanh.
Kế bên miếu là quán chợ. Đây là nơi họp chợ thường thấy ở các làng. Địa thế hình chữ nhật, dáng hơi thon dài, rộng một trượng, dài hơn ba trượng, không tường, không cửa, chỉ có các cột gỗ, khung trần dựng trên nền gạch đỡ lấy mái ngói vảy dựng theo lối tam giác bên trên. Mỗi phiên họp chợ, những tiểu thương sẽ vào đây để bày hàng buôn bán. Còn khi không có phiên chợ thì thường dùng làm chỗ nghỉ chân.
Lê Quý nhìn hai nơi này chợt có chủ ý. Y lệnh mọi người gấp rút di chuyển, leo lên mái ngói của ngôi miếu. Nghe lệnh cả nhóm vừa đánh, vừa chạy. Đến nơi, đám dân làng vây lại vô cùng rát, nếu không có khiên lớn, giáp dày cùng đội hình bọc lót, hẳn đám Cẩm y vệ đã bị cắn xé, thương vong nặng nề.
Nhanh trí, Lê Quý đốt một ống trúc đựng đầy thuốc súng rồi ném vào đám người. Ống trúc chưa rớt xuống đất thì thuốc súng đã bốc cháy nổ tung, khói tỏa mù trời. Trong khoảnh khắc đám đông hơi khựng lại.
Bắt thời cơ, bộ binh, pháo thủ đeo khiên, súng ra sau lưng, giáo binh dựng giáo vào mái ngói. Tử Hiến và Phạm Siêu ngay lập tức áp sát ngôi miếu, đứng làm thang cho Nhân Cậy và Hữu Dũng đứng lên vai leo lên. Đợt thứ hai là nữ lang y. Nàng được đỡ đứng lên lưng Tử Hiến. Nhờ thân hình Thị Quỳnh nhẹ cân, mái miếu cũng không quá cao, nên Tử Hiến có thể dùng lực đứng dậy, nâng nàng lên quá rìa mái ngói. Tới đây một người bên trên có thể dễ dàng hổ trợ đỡ lên. Đồng thời, người còn lại trên mai miếu tranh thủ thu hai ngọn giáo. Đợt thứ ba là Lê Quý và Phan Vũ. Hai người này béo tốt, leo trèo chật vật, người ở trên mái ngói cũng phải hỗ trợ kéo lên. Cuối cùng, Tử Hiến và Phạm Siêu được kéo lên vừa kịp lúc đám người làng lại ùa đến.
Diện tích miếu nhỏ, không thể nán lại, cả bọn nhanh chóng hỗ trợ nhau trèo qua mái quán chợ kế bên.
***
[1] 1 thốn = 2,4 m2.
[2] Một thước = 40 centimet.
[3] Đây là bài thơ chữ Hán “Lỵ Nhân nữ sĩ” của vua Lê Thánh Tông. Dịch nghĩa:
Trên đê cao, mùa xuân tới gần nhưng vẫn gió mưa lạnh lẽo,
Con gái ở đây đẹp như con gái nước Tần, nước Yên, cười nói vui vẻ.
Trước tình tứ nồng ấm thơm tho ngàn hồng bên bờ suối,
Thế mà bọn trai vẫn như đàn ong bay chơi vô tình chẳng nhòm ngó tới.
Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI