Phạm Siêu nghe Lê Phó vệ chọn mình thì cảm thấy bất ngờ. Trong ấn tượng của Siêu, Lê Quý là một dạng cấp trên vô tư, lười nhác. Thường ngày cũng không qua lại gì nhiều với các binh sĩ, làm việc tròn vai là được, chẳng bỏ nhiều tâm tư. Thời gian qua ở trong quân, Siêu gặp Quý được đôi ba lần, chủ yếu là vào các dịp kiểm quân, khao quân, còn bình thường vào các giờ luyện binh, đào thành, đắp lũy… thì chẳng bao giờ thấy y.
Một thoáng bất ngờ trôi qua nhanh, tâm tư cậu thanh niên liền có chuyển biến. Dù sao đây là lần đầu được chỉ huy quân vệ đích thân chọn đi làm công vụ, cậu chàng tin rằng đây là cơ hội tốt để y trổ tài, khiến cấp trên nhìn nhận. Hơn nữa, Siêu có tính thượng võ, lại đang tuổi thiếu niên, khí huyết sục sôi, ở mãi trong doanh thật là buồn chán lắm. Nay có cơ hội ra ngoài đúng là cầu được ước thấy. Phạm Siêu bất giác có chút háo hức.
Ba binh sĩ nghe gọi thì lục tục từ trong đám đông đi ra nhận lệnh. Trong ba người, đứng giữa là một binh sĩ béo tròn, gương mặt hay cười, tên Phan Vũ, biệt danh thường gọi là Vũ Béo. Tuổi độ hăm một, hăm hai, người Thái Nguyên. Nghe nói là con thứ trong nhà thổ tướng ở phủ Phú Bình [1]. Tổ tiên Phan Vũ từng theo Lê Thái Tổ chống quân Minh. Sau đất nước thái bình thì được luận công ban tước. Từ đó, con cháu các đời đều làm thổ tướng ở vùng này.
Phan Vũ văn võ đều biết một ít, nhưng tất thảy đều không tinh thông. Thấy con như vậy, cách đây hai năm, cha Vũ đã dẫn y vào kinh xin cho vào cấm quân. Vô tình là cái kiểu mỗi thứ biết một ít như Vũ Béo lại hợp với quân Cẩm Y, thường được mấy vị chỉ huy cho theo hầu.
Binh sĩ bên phải có thân hình cân đối, gương mặt hơi gầy, lại có phần ương bướng. Mái tóc y cắt ngắn sát đầu trông rất nổi bật. Kiểu tóc này rất khác biệt so với đại đa số quân Cẩm y, chuộng lối để tóc dài quý tộc. Người này gốc ở Đông Kinh, tên Nguyễn Nhân Cậy, tuổi tác không hơn Vũ Béo. Nghe quan tổng quản từng nói, Cậy thuộc hàng quốc thích [2]. Tuy nhiên cái gốc quốc thích này đã cách đây mấy đời vua. Dòng Nguyễn Nhân nhà Cậy xưa là anh em ruột với bà Ý Đức Nghị Hoàng Hậu, vợ vua Lê Thế Tông [3]. Cha ông Cậy dựa vào mối quan hệ này mà được phong tước. Sau dòng tộc này xả thân vì nước, giành lại Đông Kinh, nhờ có công lao mà qua mấy đời vẫn luôn được hưởng hoàng ân.
Cha Cậy là Lữ Bá cưới bốn người vợ mà không có con. Người vợ thứ tư đi cầu tự mãi mới có thai, sinh ra anh trai Cậy. Nhưng người anh này từ khi sinh ra đã hay bệnh vặt rất khó nuôi. Sau bà sinh thêm Cậy thì quyết định đặt tên xấu xí chút cho khỏe mạnh.
Nhân Cậy tuy thuở nhỏ sống trong giới quý tộc, nhưng đến tuổi thiếu niên lại thích giao du với phường giang hồ, đầu gấu, lấy nhân vật Sử Tiến [4] trong Thủy Hử truyện làm gương. Năm đó, Cậy bắt chước người ta cạo đầu, bỏ vàng ra thuê thợ xăm lên mình chín con hổ. Trong lúc đang xăm lên lưng, Cậy ba hoa với đám bạn du thủ du thực rằng:
“Lương Sơn Bạc có Cửu Văn Long thì Đông Kinh có Cửu Văn Hổ ta đây! Ha Ha Ha”
Tiếng cười của mấy thiếu niên chưa dứt thì ông Lữ Bá bất thình lình ập vào cùng mấy cận vệ, bắt hết đám thiếu niên về phủ. Mỗi người lãnh năm hèo rồi thả cho về. Riêng Cậy thì bị tống vào trong quân Cẩm Y cho chính Đinh Tổng quản huấn luyện. Từ đó đến nay Nhân Cậy đã ở trong quân được hai năm và cu cậu cũng không để tóc dài nữa.
Người bên trái trong ba binh sĩ có tuổi tác cao nhất, năm nay đã đến tứ tuần, họ Trình tên Hữu Dũng, người huyện Chí Linh, phủ Nam Sách [5], làm chức Chưởng đội. Hai người Vũ và Cậy là binh sĩ trong đội của y. Tuy cái tên của họ Trình nghe thật quả cảm, nhưng người lại thường bị xem là kẻ nhát gan. Trong quân hễ có đánh nhau thì sẽ chẳng thấy mặt ông Dũng đâu. Đợt này đánh quân họ Nguyễn, Hữu Dũng cũng đã xin thoái thác không đi, nhưng cuối cùng vẫn bị bắt đi cho đủ quân số.
Tuy vậy nhưng Hữu Dũng là người tỉ mỉ chuyện hậu cần, chuyện ăn ngủ thường chuẩn bị chu đáo, sống với anh em cũng không tệ bạc. Mấy tay hỏa đầu, sao quân thường rất sợ y, bởi từ quân lương đến sổ sách chỉ cần Dũng nhìn qua một lượt liền chỉ ra được đúng sai. Cái tài này cũng phần nhiều do xuất thân thương nhân của gia đình ông.
Nhà họ Trình xưa nay làm lái buôn đường sông, đường biển, tích cóp được một gia tài nhỏ. Năm Canh Dần, 1591, Triết Vương Trịnh Tùng [6] tổ chức chiến dịch Bắc phạt, tái chiếm Đông Kinh. Đợt đó, các thuyền buôn họ Trình đã tham gia tải lương, tiếp ứng tiền bạc, vũ khí cho quân Lê. Nhờ đó mà về sau cha ông của Hữu Dũng được ban cho chức viên ngoại lang, hàm tòng lục phẩm.
Song, chức này có phần hữu danh vô thực, được triều đình dùng để ban cho những người tạp lưu trúng trường mà thôi. Với chức quan thấp, bổng lộc cũng không cao, nhà họ Trình lại tiếp tục lách luật làm công việc buôn bán. Đến đời Hữu Dũng thì chức tước đã mạt, thấy ông là con thứ trong nhà, gia đình mới dùng quan hệ xưa cũ kèm tiền bạc xin cho một chân Cẩm y vệ. Ông Dũng có một vợ, ba con. Con trưởng của ông năm nay đã mười tám tuổi, vừa rồi thi hương đã đỗ được Hương cống [7]. Ông Dũng định hết năm nay sẽ xin xuất ngũ về hưu.
Ngoài các tính cách trên, Hữu Dũng còn là người mê tín, gặp chuyện xui xẻo hay may mắn đều sẽ đi xem bói. Trong người thường mang hai đồng tiền cổ, nghe bảo là vật mang thần khí, hữu duyên mua được từ một thầy phong thủy tiên phong đạo cốt. Mỗi khi gặp chuyện khó quyết, ông Dũng sẽ tung hai đồng này để định đoạt. Đối với chuyện cúng kiếng thì càng xem trọng. Đêm ngủ mơ thấy sự lạ thì thế nào sáng hôm sau Hữu Dũng cũng sẽ bày mâm cúng kiến. Anh em thấy thì cũng chỉ cười trừ, mặc kệ.
Tuy không quen thuộc như ba người Vũ, Cậy, Dũng nhưng Lê Quý đối với tay đô vật vừa bị Phạm Siêu đả bại cũng không quá xa lạ. Khi nghe Lê Phó vệ chọn mình đi làm nhiệm vụ, tay đô vật hơi bất ngờ, nhưng cũng nhanh chóng đứng lên chắp tay nhận lệnh. Y cảm thấy thấy lệnh điều động đến thật đúng lúc, vừa khéo cho y cái cớ rời khỏi sới vật, tránh mất mặt thêm sau trận thảm bại.
Tay đô vật tên Tử Hiến, họ Lý, người huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam, tuổi chừng hai lăm, vào quân đã ba năm, nổi tiếng với thân thể cao to, sức lực hơn người.
Tử Hiến xuất thân dòng dõi hiếu học, là cháu mấy đời của Đông các học sĩ thời Lê Sơ, Lý Tử Tấn [8], cha y hiện vẫn đang làm chức Tri huyện Thanh Đàm. Từ ngày họ Lý về làm quan, việc giáo dục trong huyện hưng thịnh hẳn lên, sĩ tử đậu cử nhân khoa nào cũng có, lại còn có được vài ông tiến sĩ áo gấm về làng.
Tuy nhiên, Tử Hiến con nhà tông lại chẳng giống lông, cũng không giống cánh, gia đình cho theo học trường phủ mười mấy năm nhưng đến thi Hương cũng không đỗ nổi, chẳng có chút tài học nào, khiến cha y buồn bực lắm.
Cha Hiến làm Tri huyện có người bạn họ Vương làm Huyện úy ở cùng nha môn, tính tình rất thượng võ. Xưa ông từng theo Trịnh Vương thảo phạt nhà Mạc ở Cao Bằng, gây được không ít chiến công. Sau ông bị thương nên xin chủ tướng cho về làm Huyện úy ở quê nhà.
Khi Lý Tử Hiến còn bé, Vương Huyện úy thường tới chơi nhà. Ở đây, ngài Huyện úy thấy đứa bé Tử Hiến dáng người cao lớn, mạnh khỏe thì rất thích nên dạy võ cho. Cha Hiến thấy chuyện luyện tập cường thân kiện thể thì chẳng ngăn cấm. Về sau lớn lên, Tử Hiến học hành không có kết quả, nhưng đối với võ thuật thì ham thích, tập luyện cũng được một thân bản lĩnh. Nhất là các ngón đấu vật. Từ hội vật ở làng đến các hội vật quanh phủ, Lý Tử Hiến cũng được xem là một đô vật có chút tiếng tăm.
Tử Hiến học không thành tài, cha y cũng đành mặc kệ không màng tới nữa. Vài năm trước, Tử Hiến chán nản bỏ nhà lên Đông Kinh. Chẳng lấy tiền của nhà, Hiến thường tới lui các sới vật quanh thành thi đấu ăn tiền thưởng, hưởng tiền cược, cuộc sống cũng không tệ.
Sống nơi phồn hoa đô hội, Hiến cũng gặp không ít cám dỗ. Y thường lui tới ca quán nên sinh cái tật mê thích nghe hát ả đào. Ở đây Hiến gặp và yêu một ca nương họ Trương. Hai người qua lại một thời gian thì Trương thị có thai. Nàng thoát đời ca nữ mà đi theo Hiến.
Lý Tử Hiến lúc đó biết mình sắp làm cha thì vừa mừng vừa lo. Thấy đất thần kinh vật giá đắt đỏ, nay lại phải nuôi thêm người, Tử Hiến bèn đưa Trương thị về huyện Thanh Đàm gặp thầy mợ xin cưới làm vợ. Thấy thị đã cấn thai, gia đình họ Lý cũng đành đồng ý. Song, vì môn đăng hộ đối, lại trước có cái danh ả đào, nên chỉ cho Hiến cưới thị làm thiếp. Cuối năm đó, Trương thị hạ sinh một bé gái kháu khỉnh.
Từ khi làm cha, Tử Hiến bỗng nhận ra trên vai mình thêm nhiều trách nhiệm. Hiến lo sợ, bản thân thì chẳng có địa vị, nghề ngỗng gì ra trò, vợ y trước đây lại từng làm đào hát, e là về sau con gái sẽ chịu thiệt thòi, khó gả vào nhà tốt, lại có khi còn bị coi thường. Sự bất an cùng trách nhiệm của người đàn ông khiến Tử Hiến lần đầu nghiêm túc muốn tìm công danh.
Có lần một người bạn rượu khuyên Hiến, nếu văn dốt, võ tốt thì không bằng dựa vào thân phận con em quan lại mà xin vào cấm quân, vừa có miếng lại vừa có tiếng. Hiến cho là ý hay nên về xin phép cha. Cha Hiến thấy con mình không có hy vọng trên hoạn lộ thì cũng đành đồng ý viết thư tiến cử Hiến vào cấm quân. Chớp mắt Hiến vào quân đã ba năm, con gái y cũng đã hơn hai tuổi. Vừa rồi đi hành quân qua hành cung Vạn Lại [9], tình cờ gặp một hàng bán lược đẹp, Hiến nhớ đến vợ con liền không tiếc tiền mua hai chiếc lược bạc, mong đến ngày về kinh sẽ tặng cho vợ con mừng.
Cuối giờ Mùi, sáu người Lê Quý nai nịt gọn gàng cưỡi ngựa rời khỏi quân doanh Cẩm y vệ. Tuy không ở gần vùng chiến sự nhưng Lê Quý vẫn yêu cầu mọi người trang bị kỹ càng. Ngựa của ba người Vũ, Cậy, Dũng là chở nhiều nhất. Từ lương thực, mền chiếu đến thuốc thang, cung nỏ, linh tinh các thứ đồ nghề đều được Trình Chưởng đội chuẩn bị, bắt mang theo. Ông nói trước khi đi có tung hai đồng xu bốc một quẻ thì thấy lạ lắm, nên phải cẩn tắc vô ưu.
Cẩm y vệ thời này, ngoài các quan tướng có phẩm mặc áo xanh, bổ tử thêu voi, hai vai thêu hoa văn thì toàn bộ binh lính các đội đều được quy định mặc áo giao lĩnh vải thanh cát, ống tay một rộng, một hẹp, viền đỏ nẹp trắng, mũ mão mấy loại sơn màu đỏ, đính hoa vàng, sau lại tùy vào binh chủng, chức vụ cao thấp mà được phân phát áo giáp, vũ khí.
Trong đội, Phan Vũ và Nhân Cậy là quân bộ binh, đầu đội đinh tự đỏ, áo giáp vây cá cộc tay mặc ngoài, sau eo đeo phác đao cán ngắn, hông phải treo một thanh chủy thủ, lưng mang khiên tròn bằng mây, trên khiên sơn vẽ hổ phù… trông rất có uy thế.
Hữu Dũng và Tử Hiến là giáo binh. Giáo binh khiển một ngọn giáo dài hơn nửa trượng, đòi hỏi sức lực vững vàng, kinh nghiệm điêu luyện. Ngoài ngọn giáo để tựa vào vai, bên hông hai người đeo đoản gươm. Tử Hiến mặc giáp đội mũ như Vũ và Cậy.
Riêng mũ, giáp của Chưởng đội có chút khác biệt. Đầu ông đội mũ trụ rộng vành, mình mặc bố diện giáp cộc tay. Loại giáp này do nhiều mảnh thép hình chữ nhật ghép chồng lên nhau mà thành, sau lại được bọc vải đỏ, đóng đinh. Loại áo giáp công phu như này thường thì Chưởng đội như ông Dũng chưa thể được cấp. Đây là do ông tự bỏ tiền sắm sửa. Song, bình thường Trình trưởng đội cũng không dùng, chỉ là nay bốc quẻ thấy bất an nên mới lấy ra mặc.
Phạm Siêu và Lê Quý đều là những pháo thủ được trang bị súng hỏa mai. Súng được triều đình đặt mua từ người Bồ Đào Nha, dài bốn thước, trang trí đơn giản, hỏa lực mạnh, trong vòng hai mươi lăm trượng nếu bị bắn trúng thì khó sống. Súng đeo sau lưng, vai đeo túi lớn đạn dược, hông mang gươm.
Tuy nhiên, vì là pháo thủ nên trang phục của Phạm Siêu có chút khác biệt so với những binh sĩ còn lại. Trên đầu vẫn đội mũ đinh tự đỏ, song thân người vận giao lĩnh đen thêu hai bên tay, bên ngoài không mặc giáp sắt mà phủ một chiếc viên lĩnh bát tý màu son.
Lê Quý là võ quan có phẩm hàm, tuy không cao, nhưng vẫn được mặc áo thêu hoa, trước bụng có bố tử, đầu đội mũ trụ. Áo giáp y đang mặc là một loại giáp chống đâm chém tốt, chống tên đạn kém, được làm bằng nhiều vòng thép nhỏ móc vào nhau mà thành, gọi là giáp xích. Lê Phó vệ mặc giáp xích dưới lớp áo ngoài. Đây là một kiểu trang bị của nhiều quan võ khi đi làm công vụ nhưng không muốn mang trọng giáp nặng nề.
Công vụ lần này không đi theo xa giá nên Lê Quý lệnh mọi người nai nịt gọn gàng đặng hoạt động được nhanh nhẹn. Xong, cả nhóm liền lên ngựa xuất phát.
Đoàn sáu thớt ngựa xếp hàng hai phi nước kiệu về phía Bắc. Hai giáo binh đi trước, pháo thủ đi giữa, bộ binh đi cuối. Ngựa chạy hơn khắc thì đến một trạm gác do một đội lính tam phủ canh giữ.
***
[1] Nay thuộc Thái Nguyên.
[2] Bà con, họ hàng, người thân của các bà Hậu Phi thì gọi là quốc thích.
[3] Lê Thế Tông (1567 – 1599), tên húy là Lê Duy Đàm , là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lê trung hưng, ở ngôi từ năm 1573 đến năm 1599.
[4] Giống với Võ Tòng, Sử Tiến là một nhân vật trong tiểu thuyết Thủy hử. Sử Tiến từ nhỏ đã ham mê võ nghệ hơn các công việc nhà nông. Ông hay xăm hoa trên mình, cùng với chín con rồng, vì thế có ngoại hiệu là Cửu Văn Long.
[5] Nay thuộc Hải Dương.
[6] Trịnh Tùng (1550 –1623), thụy hiệu Thành Tổ Triết Vương, là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới thời nhà Lê trung hưng.
[7] Hương cống là một loại học vị trong hệ thống khoa bảng thời phong kiến do vua Lê Thánh Tông đặt để ban cho những thí sinh thi đỗ tứ trường (bốn kỳ) khoa thi Hương.
[8] Lý Tử Tấn (1378-1457), quê tại làng Triều Đông, huyện Thượng Phúc, nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội. Ông là nhà thơ, nhà văn hóa, làm quan thời Lê sơ. Ông làm quan đến Học sĩ viện Hàn lâm các, trải ba đời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông.
[9] Hành cung Vạn Lại hay còn gọi với các tên khác như hành điện Vạn Lại, cố đô Vạn Lại, là kinh đô của triều nhà Lê trung hưng trong giai đoạn Nam – Bắc triều. Vạn Lại nay thuộc đất huyện Thọ Xuân, ở phía đông Lam Kinh, Thanh Hóa.
Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI