Lính Tam Phủ [1] còn gọi là ưu binh, chỉ những binh sĩ xuất thân từ ba huyện Hà Trung, Thiệu Hóa và Tĩnh Gia, trấn Thanh Hoa, đã theo chúa Trịnh từ những ngày đầu trung hưng. Khi đánh lui được nhà Mạc ở Đông Kinh, triều đình giữ mấy vạn binh sĩ này lại làm quân Túc vệ. Từ đó về sau quân của Trịnh Vương đa phần là từ hai vùng Thanh, Nghệ tuyển ra.
Ưu binh toàn người đồng hương, trải qua mấy mươi năm chiến chinh mà tình như thủ túc. Mấy năm nay, có chuyện nhiều đội quân tam phủ thường cậy công, tự cao, lắm lúc say sưa làm không ít chuyện càn quấy trong kinh. Song, quân tam phủ đa phần thượng võ, chưa hẳn là hạng ngang tàng, biết sợ người trên, chịu điều lý lẽ.
Trạm gác là một khu vực chắn ngang đường cái quan, rộng độ một xích [2], xung quanh dựng hàng rào bằng tre. Bên trong trạm có một gian nhà nhỏ dựng bằng gỗ, lợp ngói đất, kế bên là một lán trại thô sơ, mái lợp tranh làm nơi đặt bếp lò. Hai đầu ra của trạm dựng hai tháp canh. Đường đi bị chặn bằng bốn khung cự mã [3] làm từ tre lớn. Ngoài các kiến trúc trên, trong trạm còn có hai cây cổ thụ tán thấp, hẳn là đã có ở nơi đây từ lâu.
Nhìn chung, trạm gác được xây dựng với mục đích sử dụng lâu dài, cung cấp đủ điều kiện cho binh sĩ đồn trú trong nhiều ngày. Các trạm gác như này được đặt ở những nơi hiểm yếu trên khắp đất nước, tùy theo địa hình và tình hình an ninh tại địa phương mà có đôi chút khác biệt. Chúng đóng vai trò canh giữ, kiểm soát việc di chuyển liên phủ, liên trấn của người dân.
Từ buổi Trung Hưng đến nay binh lửa liên miên, việc quân bị chưa khi nào dứt, triều đình đề phòng gián điệp, đạo tặc nên càng thêm thắt chặt chuyện đi lại. Người dân muốn đi từ huyện này sang huyện khác, phủ này sang phủ khác phải xin giấy phép của nha môn. Muốn xin được giấy thì trước tiên phải có hai người uy tín trong vùng bảo lãnh, sau là phải bỏ ra chút phí thông hành. Thời trước cũng đã có lệ tìm người bảo lãnh, lỡ mà ngặt nghèo không có thì bỏ thêm ít tiền nhiều khi cũng cho qua, nhưng nay thì khó khăn hơn mấy lần.
Dẫu là vậy, nhưng khi đến các trạm dọc đường, người ta còn phải qua mấy việc quan binh sách nhiễu thu đồ, xin tiền… Triều đình biết nên thường cho Hiến ty thắt chặt tuần tra, bắt tội những kẻ lạm quyền. Song, đó cũng chỉ là chuyện nhất thời, ít lâu sau mỗi đợt rà soát, đợi cho tình hình lắng xuống thì đâu cũng lại vào đấy.
Trong trạm hiện có một đội mười sáu binh sĩ đồn trú. Ngoài sáu người đang trực gác ở hai lối ra bận giáp phục thì các binh sĩ còn lại đều ăn mặc giản tiện, có người còn cởi trần, nhàn nhã nhai trầu, ngồi tán gẫu dưới tán cây cổ thụ cạnh gian nhà gỗ.
Đoàn người Lê Quý đến trước trạm gác. Thấy có hai binh sĩ cầm binh khí, đội mũ đinh tự đen, đứng gác nơi lối vào, Lý Tử Hiến thúc ngựa bước lên dõng dạc nói:
“Thánh thượng có chỉ. Cẩm Y hành sự. Mau mở đường!”
Câu nói này đối với người thường thật có trọng lượng, ai nghe thấy liền dạt vào nhường đường. Vào thuở thái bình trước đây thì lại càng ghê gớm, một câu vang lên liền khiến đường phố Đông Kinh gà bay chó chạy. Nhưng đó đã là chuyện xưa cũ lắm rồi, uy quyền của Cẩm Y lúc này đã không thể áp chế được những binh lính Tam Phủ nữa.
Mặc dù trong Cấm quân cũng có phần đông xuất thân từ quân Tam Phủ nhưng một khi đã vào cung Vua thì liền bị xem nhẹ đi mấy lượng. Hai binh sĩ nghe xong cũng không nhúc nhích, dùng ánh mắt khinh khỉnh nhìn đám người mới đến.
Lý Tử Hiến cảm thấy lửa giận dần bốc lên trong lòng. Siết chặt ngọn giáo trong tay, y lớn tiếng nói lại câu vừa rồi một lần nữa. Thấy hai binh sĩ vẫn trơ trơ, y quát:
“Hai đứa bây điếc à! Không nghe tao nói sao còn đứng đó không mở đường. Bọn tao có lệnh của Thánh Thượng đây.” – Vừa quát, Tử Hiến vừa giơ phong thư có in chìm hình mây rồng, dấu hiệu của hoàng triều lên.
Lời Lý Tử Hiến vừa dứt thì có một viên ngũ trưởng [5] đi ra. Người này vận áo mã quái thêu hoa văn, đầu đội mũ trụ đính lông đuôi gà trống hai bên. Trang bị của một ngũ trưởng bên quân túc vệ còn có phần cao cấp hơn Chưởng đội cấm quân. Thái độ của y cũng không khác hai binh sĩ vừa rồi, thiếu điều còn kênh kiệu hơn, một tay nắm đốc kiếm, một tay xòe ra kêu Tử Hiến giao phong thư để xem xét.
Tên ngũ trưởng mở phong thư, nhìn ngược nhìn xuôi một hồi ra vẻ đăm chiêu lắm. Đám Cẩm y vệ nhìn nhau với ánh mắt nghi ngờ, hỏi nhau: “Không biết thằng này có biết chữ không nữa!? ”
Mọi người nghi ngờ kẻ này mù chữ vì chẳng ai cầm ngược thư mà đọc cả. Nhưng Lê Quý biết hắn đang xem cái gì. Thứ gã ngũ trưởng nhìn chăm chú đó là con dấu đỏ trên lá thư thếp vàng bốn cạnh. Một lát sau hắn ngước lên hỏi Lý Tử Hiến:
“Trong thư không có dấu của phủ Chúa. Các ngươi đi có lệnh của Trịnh Vương không?”
“Không!… Nhưng rõ là lệnh của Thánh Thượng rồi sao còn rườm rà thế!” – Lý Tử Hiến hơi mất kiên nhẫn nói.
“Đây là vùng chiến sự, không có lệnh của Trịnh Vương thì nội bất xuất, ngoại bất nhập!” – Gã ngũ trưởng đáp.
Lý Tử Hiến hậm hực không biết tính thế nào thì Trình Hữu Dũng ở kế bên tiến lên nói:
“Vị ngũ trưởng này, anh em chúng tôi là phụng mệnh hoàng thượng đi công vụ ngay dòng Loan Giang cách đây không xa. Chuyện này là mang bảo vật về tặng Trịnh Vương chứ không đơn thuần là công vụ của thánh thượng!” – Hữu Dũng rút trong người ra mười đồng tiền, rồi vừa dò sắc mặt, vừa đặt vào tay tên ngũ trưởng. Ông nói tiếp – “Mong người anh em thông cảm cho, chớ làm trễ công vụ!”
Sắc mặt tên lính túc vệ dần giãn ra, lệnh cho hai binh sĩ mở rào, rồi dẫn đoàn Cẩm y vệ vào trạm. Đám cấm quân sau khi tiến vào trong thì lại được bảo ra gốc cây ngồi đợi. Vào trạm thì qua tên ngũ trưởng nhưng muốn ra trạm thì phải thông qua trưởng trạm.
Xuống ngựa, sáu người tụ tập dưới gốc cây. Lê Quý vẻ mặt thờ ơ, lựa một chỗ thoải mái, ngồi tựa vào thân cây nhắm mắt. Ngược lại, đám thuộc hạ của y đều ít nhiều cảm giác tức giận trước cảnh phiền hà vừa rồi. Trình Hữu Dũng muốn dò la tin tức nên đi chào hỏi mấy tay lính Tam Phủ. Đợi độ hai khắc, Phạm Siêu bất bình nói với mọi người:
“Chúng ta là Cấm quân còn bị đối đãi như này. Thử hỏi đến kẻ thường dân muốn qua cửa thì còn phải cám cảnh nhiễu nhương đến nhường nào!”
Lý Tử Hiến nhìn vào trong gian nhà gỗ, nơi viên trưởng đội của đám lính trạm tá túc, từ khi tên ngũ trưởng vào báo cáo vẫn không thấy có động tĩnh gì. Nhìn một chốc, Tử Hiến quay lại nói:
“Có khi do chúng ta là Cẩm y vệ nên mới vậy thôi. Bọn Tam Phủ xưa nay không ưa gì Cấm quân, thường khinh khi ra mặt.”
Nguyễn Nhân Cậy tính tình ngổ ngáo, cảm thấy bực bội liền nghĩ ra trò phá phách:
“Bọn này không coi ta ra gì thì mình chơi chúng nó một vố đi!”
Phan Vũ đang uống nước kế bên, hỏi lại:
“Chơi gì?”
“Nãy ta đi tè có thấy một cây hồ tiêu mọc hoang. Thứ cây này mạ ta hay bỏ vào đồ ăn có mùi thơm mà vị lại cay, nóng. Ta có hái được một túi nhỏ. Giờ đã là gần giữa giờ Thân, hai ta mau chóng lẻn vào trộn tiêu, muối vào lu gạo trước khi chúng bắt đầu nấu cơm. Chơi cho chúng biết mùi cay cú. ”
Ba người Phan Vũ, Phạm Siêu và Tử Hiến nghe kế thì vui vẻ hẳn lên. Thấy vố này chơi được nhưng chưa dám vọng động, quay qua nhìn Lê Quý hỏi ý. Lê Quý ngồi nhắm mắt kế bên đã nghe hết kế hoạch của đám thuộc hạ. Hắn không ngăn cản, chỉ thờ ơ nói một câu “Đã làm thì đừng để bị bắt.” rồi quay sang chỗ khác.
Nghe vị cấp trên của mình nói vậy. Cả bọn biết là đã được chấp thuận. Hai người Vũ và Cậy trước giờ đã biết tính Lê Quý, tuy thờ ơ, biếng nhác nhưng y cũng là một người sắc sảo, ít nhiều trước sự khinh thường của đám lính Tam Phủ mà khó chịu trong lòng.
Bốn người vừa đứng dậy thì Trình Chưởng đội đã quay về. Ông hỏi bốn người đi đâu thì chỉ được bảo là đi tiểu tiện. Nhóm Cẩm y vệ đi vòng ra sau gian nhà gỗ đến hố xí cạnh vườn rau rồi đánh một vòng ra sau khu bếp. Ở đây Nhân Cậy chia bốn người ra hành động, hai người canh chừng, hai người đột nhập khu bếp từ phía sau. Đám Cẩm Y trẻ tuổi này rất có thiên phú làm mấy trò phá phách, trong chốc lát đã quay lại nơi gốc cây như chưa có chuyện gì xảy ra.
Thuộc cấp bày trò phá phách, Lê Phó vệ trong lòng cũng có chút quan tâm, nhưng việc này không có lợi lộc hay tổn hại gì, lại không cần bản thân nhúng tay thì y sẽ cứ thờ ơ cho qua.
Lê Quý đúng là một người lười nhác. Y ghét nhất là chuyện phiền hà, việc gì không có lợi, không nhất thiết bắt buộc thì tuyệt không làm, việc nằm mà làm được thì quyết không ngồi. Vì đặt lợi ích lên trên nên quan hệ xã giao của Quý với các cấp trên tương đối tốt. Trước đây, khi mới vào quân, Quý thường mời cấp trên trong Cẩm y vệ đi tửu lầu nhậu nhẹt, nghe hát, trêu hoa ghẹo nguyệt… Chuyện đó góp công lớn, giúp y được xét lên chức Phó vệ úy. Tuy nhiên, không chỉ đơn thuần là kẻ lười nhác luồn lách thăng quan, Lê Quý cũng là người có ít nhiều bản lĩnh.
Sinh ra là con thứ trong phủ Hầu gia, lớn lên biết bản thân chẳng thừa kế được gì, Quý từ sớm đã biết phải tự thân tìm con đường cho tương lai. Năm mười hai tuổi, Quý đi học vài năm. Tuy biết được chữ nghĩa nhưng lại không có tố chất, nên y bỏ sang theo binh nghiệp. Tính tình lại lười nên chọn học bắn súng cho mai sau đỡ khổ cực.
Dù vậy, khi đã có mục tiêu đạt lợi thì Lê Quý lại có quyết tâm cao. Muốn học hỏa khí thì trước tiên cũng phải qua các thứ võ thuật căn bản, mà lên chức Phó vệ úy thì tài bắn súng của Quý càng không phải hạng xoàng. Chỉ là sau khi thăng quan như ý muốn thì y lại lười biếng, sống an nhàn trong quân. Ngày ngày ra thao trường bắn vài phát súng cho có cái gọi là với binh sĩ. Rảnh thì chơi cờ, uống rượu với đồng cấp. Ngoại trừ mấy ngày tết nhất, hễ được nghỉ phép thì cứ kiếm y ở mấy kỹ viện quanh Đông Kinh, thế nào cũng gặp.
Đám người Lê Quý lại đợi thêm chừng hai khắc, tất thảy đã ở trong trạm gác này được nửa canh giờ, cuối cùng viên trưởng quan cũng xuất hiện. Viên Chưởng đội này tướng người cao lớn, tuổi độ ba mươi, đầu đội nón son, mình vận giao lĩnh đen, nai nịt gọn gàng, tay còn đeo hộ uyển [5] như vừa cởi giáp. Gương mặt hắn toát lên một vẻ tự phụ khi liếc mắt nhìn mấy tay Cẩm y vệ. Tuy nhiên, thay vì giải quyết cho đám Cấm quân rời đi, y lại ra bày trò cho binh sĩ thi bắn súng. Một lúc sau tên ngũ trưởng qua chỗ gốc cây mời:
“Chẳng mấy khi được mấy vị Cấm quân ghé qua. Trưởng quan ở trạm có lời mời mấy vị thi súng.”
Tử Hiến nhổ bã trầu đang nhai, nói với vẻ bực dọc:
“Đang vội công vụ, thi thố súng ống cái gì! Kêu trưởng quan của bọn mi mau giải quyết cho bọn ta thông trạm!”
Lê Quý lúc này không còn tựa cây nhắm mắt. Y nhìn viên Chưởng đội mới ra, đoán: “Tên này sách nhiễu mất thời gian. Giờ lại còn ỷ tài, khinh quân Cẩm y mà định hạ nhục lên mặt với anh em à!”
Tên trưởng quan này tự cao quân Tam Phủ chinh chiến liên miên, tài vung gươm, bắn súng đã tinh thâm lắm. Lại khinh cấm quân mang tiếng suốt ngày nhàn tản, nên muốn nhân cơ hội đánh bại quan Phó vệ, đặng khoe mẽ một phen. Sợ là, cho dù ở trước mặt hắn hiện tại đổi thành Vệ úy cấm quân thì có lẽ tên này cũng không xem trọng hơn mấy phân.
Từ đầu đến lúc này Lê Quý mới ngước lên hỏi:
“Luật thế nào?”
Ngũ trưởng đáp:
“Bắn bia, sáu mươi bộ [6].” – Tức là dùng súng hỏa mai bắn tấm bia gỗ gắn trên cọc tre ở khoảng cách sáu mươi bộ.
Thời này có vài cách thi thố, tiêu biểu là thi độ chính xác và thi bắn nhanh. Thi bắn nhanh thì không cần bắn trúng, trong thời gian quy định nạp đạn và nổ súng càng nhiều càng tốt. Còn luật thi tên ngũ trưởng vừa nói là thi độ chính xác.
Nghe xong, Lê Quý nói to cố ý cho tên Chưởng đội lính trạm ở phía sau nghe thấy:
“Một trăm bộ thì ta bắn!”
Nói đoạn, tên Chưởng đội cười ha hả. Bản thân y cũng biết khoảng cách này khá xa, ngay cả y cũng chỉ có thể chắc ăn bảy phần. Song, y lại càng tự tin đám cấm quân này không thể bắn được, Lê Quý hét cao cũng chỉ là dọa y thấy khó mà lui thôi. Y đồng ý cho lính cắm bia ở khoảng cách trăm bộ.
Trường thi bắn súng đơn sơ được dựng nhanh chóng nơi bờ rào. Lê Quý và tên Chưởng đội đứng vào vị trí thi. Trên bia, binh sĩ dùng mực đánh một chấm tròn nơi trọng tâm . Ai bắn gần tâm hơn thì thắng. Gã Chưởng đội bắn trước.
![]()
Hắn nhận súng từ một binh sĩ rồi đưa lên ngắm bắn. Một lát sau, hắn bóp cò, lẫy súng gắn dây điểm hỏa đập xuống, súng nổ, khói trắng bay mù dưới ánh nắng chiều. Trên bia gỗ liền xuất hiện một lỗ thủng cách tâm độ nửa lóng tay.
Tên Chưởng đội vừa hạ súng xuống thì Lê Quý cũng nổ súng. Một phát bắn chính xác đâm thủng tâm bia. Đám lính Tam Phủ há hốc mồm, trầm trồ thán phục. Mấy tay Cẩm y vệ sung sướng reo hò. Lê Quý nhàn nhạt phủi tay nói với tên Chưởng đội đang muối mặt kế bên:
“Bọn ta còn công vụ. Cáo từ.”
Nói đoạn, Quý mang súng rời đi. Năm người còn lại cũng lục tục theo sau với tâm trạng ngưỡng mộ. Lý Tử Hiến đi qua tên Ngũ trưởng không quên đòi phong thư chỉ thị của hoàng thượng. Đám Lê Quý rời khỏi trạm gác mà không có sự ngăn cản nào nữa. Khi bọn họ rời đi chưa xa thì chợt nghe thấy trong trạm có tiếng ho sặc sụa của mười mấy con người vang lên um trời.
Hơn một canh giờ sau, trời đã qua giờ Tuất, bóng tối bao phủ cảnh vật, đội Cẩm y vệ đã đến bờ Loan Giang.
***
[1] Lính tam phủ là quân túc vệ được tin dùng và ưu đãi dưới thời Lê – Trịnh, tuyển lựa từ ba phủ Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia (Thanh Hoá). Đời vua Lê Kính Tông (1600 – 1619), nhà nước tuyển số lượng lớn quân túc vệ từ 3 phủ thuộc Thanh Hóa và 12 huyện thuộc Nghệ An để bảo vệ kinh thành.
[2] 1 xích = 24m2.
[3] Cự Mã là vật chướng ngại gồm một khung gỗ chằng dây thép gai, hoặc các mũi nhọn, có thể di chuyển thuận tiện, dùng bịt đường tiến của đối phương.
[4] Ngũ trưởng là chức trưởng của một nhóm năm binh sĩ. Chưởng đội / Đội trưởng quản lý 2 đến 4 ngũ.
[5] Hộ uyển : miếng giáp đeo ở cổ tay, làm từ gỗ, da hoặc kim loại.
[6] 1 bộ = 5 thước = 1.65m. 60 bộ ~ 100m.
Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI