Ngày mới, lũ trẻ trong làng hoặc phụ cha mẹ ra ngoài đồng, hoặc hô hào lôi kéo nhau quậy phá.
Không biết bằng cách nào mà Fergal mới tý tuổi đầu đã có thể sai khiến lũ nhóc con trong làng, lũ nhóc thật sự tôn sùng cậu, luôn miệng hô cậu là Anh lớn.
Cậu chủ nhỏ nhà Wales luôn là thằng nhóc hay được nhắc đến nhiều nhất trong làng.
– Thằng quỷ siêu quậy! – Lão già Leon, một người thợ mộc về hưu luôn miệng mắng Fergal nhiều nhất bởi Fergal cứ thường cầm đầu lũ nhóc trong làng tới ngắm nghía căn nhà của lão. Mỗi lần chúng đến mà là phải chôm chỉa một món đồ trong nhà lão Leon, nhưng điều làm lão thấy vừa giận vừa buồn cười là chúng trộm xong một thời gian sau món đồ ấy được trả lại y như cũ.
Ngoài lão già Leon, nhà Mark cũng là ‘‘mục tiêu’’ số hai của lũ trẻ. Nguyên nhân chủ yếu bởi Mark là gia đình có vườn cây trái lớn nhất làng. Đương nhiên hái trộm trái cây không dễ dàng chút nào. Lũ nhóc do Fergal cầm đầu hầu hết chỉ mới khoảng năm, sáu tuổi, lớn nhất cũng chỉ có thằng nhãi khờ Philip mười tuổi. Nhưng gia đình Mark luôn sai thằng Andrew canh chừng khu vườn rất chặt, Andrew năm nay đã mười lăm tuổi, lại thường xuyên học võ, người cao to lực lưỡng tựa như hai mươi tuổi. Nếu chính diện đánh nhau, Andrew có thể một tay quật ngã hết mười đứa trẻ như Philip. Thế nên lũ trẻ trong làng đều rất nể sợ Andrew.
Sau nhiều lần trộm thất bại, chẳng cần Fergal đặt mưu bày kế, lũ trẻ đã tự nghĩ ra cách ăn trộm trái cây trong vườn nhà họ Mark. Chúng chia vài ba đứa làm nhiệm vụ dụ ‘‘mồi’’, tức là đảm bảo cha con nhà Mark ở một nơi trước khi ra vườn, Philip sẽ nhận nhiệm vụ làm ‘‘thang’’ cho lũ trẻ, hai đứa sẽ vào trong hái trộm trái cây, một đứa ở ngoài canh chừng, và những đứa còn lại lãnh nhiệm vụ nhặt trái cây được trộm ra.
Sáng sớm, sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, hai đứa bé năm sáu tuổi rụt rè gõ cửa nhà Mark. Một đứa tóc vàng, mặc áo gai nâu cầm rổ bánh còn nóng hôi hổi và đứa còn lại đội cái mũ to đến nỗi che khuất hết cả khuôn mặt, hai tay nó dày vò cái áo trắng bạc phết.
Sau một hồi lâu, cửa cổng nhà Mark cũng đã mở. Cái đầu như tổ quạ của lão Juraj J. Mark hiện ra, lão hấp háy cặp mắt vàng khè nhìn hai đứa trẻ:
– Có việc gì, nhãi ranh?
Hai đứa trẻ có chút hoảng hốt, chúng vừa thì thầm to nhỏ với nhau vừa đẩy nhau ra trước, cả hai đều không muốn trực tiếp đối mặt với lão Jurai, cũng bởi cái tiếng hung ác của lão trong làng. Có người bảo lão lúc say rượu từng đánh con mình đến mức phải gãy tay gãy chân. Thế nên các nhà đều cấm lũ trẻ con không được tới gần nhà của lão Jurai.
Cuối cùng, thằng nhóc cầm rổ bánh cẩn thận từng tí một tiến về phía trước, thằng nhóc ngập ngừng hồi lâu mới nói đứt quãng:
– T…Thưa quý…quý ông Mark, hôm nay mẹ…mẹ cháu có làm rất nhiều bánh để chuẩn bị cho lễ hội thu hoạch năm nay, mẹ cha…cháu dự định làm mấy rổ bánh để dâng cho thần nhưng…nhưng sợ mùi vị của bánh không tốt nên bà ấy làm thật nhiều để …để…- càng nói, thằng nhóc càng quýnh lên, lời nói vốn chuẩn bị sẵn trong đầu đều quên sạch.
Lão Jurai nhăn mặt tỏ vẻ hết kiên nhẫn, đứa trẻ mặc áo trắng không ngừng liếc mắt về cuối tường vây nhà Mark, một tay của nó vòng ra sau lưng, không ngừng ra hiệu. Có cành cây kỳ quặc thò ra từ bức tường, vẫy vẫy hai cái, nhận được tín hiệu, thằng nhóc liền khẽ giật tay áo thằng bạn, nhắc nhở nó nhanh lên.
Lão Jurai sáng sớm bị thúc dậy, bụng còn chưa nhét vào miếng nào, lão cáu tiết nhìn hai thằng nhóc, định bụng dần tụi nó mấy trận cho hả giận. Mùi bánh thơm phức từ cái rổ không ngừng thổi tới đây làm lão nuốt nước bọt ừng ực. Lão biết thằng nhóc tóc vàng, con nhà góa phụ Generosa, Generosa làm chủ tiệm bánh ngon nhất nhì làng này, mỗi năm tới lễ hội thu hoạch đều làm nhiều mẻ bánh dâng cúng thần linh, thường thường bà sẽ làm trước nhiều loại rồi đem cho mọi người trong làng ăn thử để lấy ý kiến. Loại bánh nào mọi người bảo ăn ngon hơn bà sẽ làm mỗi loại bánh đó để dâng cho thần vào ngày lễ.
Bánh của góa phụ Generosa khỏi nói rồi, dù là làm thử nhưng chắc chắn ngon hơn hẳn cơm vợ lão Jurai nấu. Lão Jurai đương nhiên cũng biết thói quen này của bà góa phụ, nhưng cũng tại cái tiếng của lão nên ít khi lão được tặng bánh. Jurai nhìn hai thằng bé, ra chiều suy nghĩ, cho là bà góa phụ kia tự dưng tốt bụng nhớ tới lão nên sai thằng bé tới đưa bánh. Lão chộp lấy rổ bánh, quát hai thằng bé:
– Rồi rồi, biết rồi. Tặng bánh chứ gì? Gớm, chả mấy hồi mẹ mày làm ơn làm phước, quý hóa quá nhỉ? Tao thèm vào, chả phải nể mẹ mi có tiếng ông đây cũng chẳng thèm lấy cái của nợ này. Rồi. Xong việc phắn đi!
Cả hai đứa ngẩn ra, thằng nhóc tóc vàng mắt đã ươn ướt, hiển nhiên bị tiếng quát của lão làm cho hoảng sợ. Thằng nhóc đội mũ lấm lét nhìn về phía tường nhà Mark, cảm thấy thời gian chưa đủ, nó đảo mắt, chợt ôm bụng nằm lăn ra đất la oai oái:
-ỐI! ỐI! ĐAU CHẾT TÔI RỒI! BỤNG CỦA TÔI.
Lão Jurai bị thằng nhóc làm cho giật mình, tiếng la hét của thằng nhóc ồn ào đến nỗi cả nhà Mark lẫn hàng xóm xung quanh đều phải chạy ra xem có chuyện gì xảy ra. Thằng nhóc kêu gào liên tục, cả người cứ co giật liên hồi. Thằng bạn của nó cũng sợ hết hồn, cho rằng bạn mình đau thật. Nó òa khóc gào lên với mọi người:
– Các bác mau cứu nó! Bạn cháu làm sao thế này? Nó sẽ chết mất!..Nó chết mất!
Có người thấy lão Jurai, ác ý đoán rằng lão đánh thằng nhóc, dù sao tiếng lão Jurai sớm nhà nhà đều biết. Thế là vài ba người lớn chẳng thèm hỏi câu nào đã nhào tới nắm cổ áo lão:
– Á À…Lão già khốn kiếp! Ông đây ngứa mắt lão lắm rồi, hết đánh con mình chưa đã tay liền đánh cả trẻ nít ngoài làng. Đã thế phải cho lão biết một tay! Tưởng lão ghê gớm lắm sao?
Lão Jurai đen mặt, lão biết đầu cua tai nheo thế nào? Lão gạt tay kẻ nọ, rống lên:
– ÔNG ĐẾCH BIẾT! CHẲNG PHẢI ÔNG LÀM, TỰ NÓ ĐAU ỐM NHƯ THẾ CHỨ TẠI ÔNG À?
Bên kia vài người hàng xóm tốt bụng đỡ thằng nhóc dậy, mặt nó trắng bệt, chảy mồ hôi không ngừng. Có người sợ hãi hô lên:
– Chết rồi! Có lẽ nó bị đau ruột thừa rồi!
Mọi người xôn xao lên:
– Nó chảy mồ hôi thế kia có phải bị sốt không?
– Vớ vẫn, vừa nghe nó la đau bụng – Có ông bác vặn lại.
– Tôi lúc nhỏ bị sốt cũng đau bụng vậy!
Lão Jurai đang vật lộn với vài người, mặt lão không biết bị ai đánh bầm cả một bên mắt, lão nghe người ta nói thế miệng rống lên:
– ĐÓ! THẤY CHƯA? THẰNG NHÃI BỊ SỐT! BỊ SỐT! ĐÉO PHẢI TẠI ÔNG.
Thằng con trai lão Andrew chạy ra, cầm trên tay khúc côn, thấy cha mình bị đánh. Andrew liền vung côn đập lên một người đang cố bẻ tay lão Jurai. Cả vợ lão cũng gào rú vác chảo ra quơ mấy phát vào lưng mấy gã bên cạnh, quơ trúng cả lão Jurai. Lão trong lúc đánh nhau vẫn không quên chửi cha chửi mẹ, chửi cả dòng họ nhà mình, trong đó có vợ lão. Thế là lão lại bị vợ vung chảo đánh vào mặt, cú này làm lão ngã hẳn xuống đất.
Mấy kẻ gây hấn đều bầm dập khắp người, chủ yếu bị côn của Andrew đánh trúng. Thằng Andrew khỏe lắm, đánh võ có bài bản, vài chiêu đã hạ gục ba bốn người. Nhưng người bị đánh lẫn hàng xóm đều phẫn uất, cảm thấy nhà Mark không nói lý, ỷ thế hiếp người. Thế là cả bọn nhào lên lần nữa, cả mấy bà dì to béo nhà bên cũng ồn ào vác chổi vác gậy hăm dọa đánh.
Nháo ra một trận lớn như thế, thằng nhóc áo trắng sợ run cầm cập. Nó đột nhiên vùng đứng dậy, trước mắt mọi người cười toe toét:
– Ha ha, cháu tự dưng hết đau bụng rồi! Quái thật các bác nhỉ?! Hết đau rồi, hết đau rồi! – Câu cuối nó vừa nói vừa không quên nháy mắt với thằng bạn đang ngơ ngác bên cạnh. Mọi người đơ cả ra, nhất thời không biết làm sao. Chờ họ hoảng hồn thì hai thằng nhóc đã chuồn mất rồi.
Hôm đó lũ nhóc đại thắng, trận ồn ào gần như đem mọi người gom hết trước nhà Mark, chẳng ai để ý gì khu vườn trái cây nhà họ. Thế là lũ nhóc tha hồ trộm đi bao nhiêu là đồ ngon. Thằng nhóc nhà góa phụ Generosa bị phạt không cho ngủ trong nhà, phải ở xó bếp cả tuần vì tội lấy trộm rổ bánh. Thằng nhóc áo trắng vốn con cháu nhà Fuentes, ngay hôm đó bị vợ lão Jurai lẫn hàng xóm đến mắng vốn, nhà Fuentes chỉ có mụn con, đương nhiên bênh con hết mực. Hai bênh lại cãi nhau vài trận, đánh nhau mấy hôm, cuối cùng cũng dẹp trận ầm ỹ này xuống. Chỉ là nhà Mark lẫn nhà Fuentes từ nay không qua lại với nhau nữa.
Sau đó không lâu, lũ nhóc định cử hai thằng nhóc kia tiếp tục dụ mồi, cơ mà hai đứa kiên quyết không nhận, nài ép không được. Lũ nhóc lại bàn cách khác để trộm, lúc chúng giả một vụ cháy trước nhà Mark, lúc lại thả côn trùng đốt Andrew, bởi lão Jurai bị đánh nằm liệt ở nhà mấy ngày trời, chỉ có mỗi thằng Andrew trông coi khu vườn nên dễ đối phó hơn.
Fergal không tham gia mấy trò ăn trộm của lũ nhóc, nhưng ở nhà cậu vẫn có thể nghe tin tức từ miệng lũ nhỏ, thi thoảng cũng chỉ điểm cho chúng.
Ngày tháng dần trôi, tới cuối mùa thu hoạch năm nay cậu sẽ tròn bốn tuổi. Ở thế giới này thời gian một năm khá là dài, cách chia lịch cũng khác rất nhiều so với trái đất.
Nếu trái đất một ngày hai mươi tư giờ, một tháng ba mươi ngày, một năm mười hai tháng thì ở nơi đây, một năm có mười bốn tháng, mỗi tháng có bốn mươi lăm đến năm mươi ngày, mỗi ngày dài khoảng hai mươi tám tiếng nếu tính theo giờ trái đất. Fergal dựa vào lịch đếm được một năm có tới một nghìn không trăn sáu mươi tám ngày! Có thể hiểu một năm ở đây tương đương gần ba năm ở Trái Đất!
Một điểm khác biệt so với trái đất thì thế giới này cứ hai tháng kết thúc một mùa, tức là một năm có bảy mùa.
Làng Fergal sống ở vĩ độ khá chuẩn, thế nên cậu có thể nhận thấy sự thay đổi rõ rệt của các mùa trong năm thông qua biểu hiện của thiên nhiên và thời tiết. Người nơi đây thường đặt tên mùa theo đặc tính của cảnh quan sự vật. Hai tháng đầu tiên của năm, khí hậu lạnh giá và có tuyết, gọi là mùa Trăng bạc bởi có lẽ do góc độ chiếu sáng của mặt trời khiến cho hai mặt trăng hoàn toàn phủ một màu bạc trắng.
Cứ tới mùa này lũ trẻ trong làng vừa thích vừa sợ, chúng thích vì có thể chơi các trò ném tuyết với nhau, đồng thời đây cũng là thời gian lễ hội diễn ra nhiều nhất. Bên cạnh đó, nỗi sợ của lũ trẻ vào mùa này đó là khi đến tối sẽ xuất hiện nhiều sinh vật khổng lồ bay lượn trên trời về đêm.
Lily từng nói Fergal không nên nhìn lên trời vào thời gian này, đó là các vệ thần – những sinh linh huyền thoại phục vụ cho thần linh, các vệ thần tới thời điểm này sẽ tụ họp ở trung tâm thế giới để chào đón đại thiên thần và có nhiệm vụ canh gác cho thần linh khi họ nghỉ ngơi. Còn theo Fergal đây có lẽ là cuộc di cư của một đàn ma thú khổng lồ nào đó để tránh rét, cơ mà cậu cũng không thể chứng minh điều này có đúng hay không, dù sao đây là thế giới kỳ diệu đầy phép thuật.
Mùa kế tiếp gọi là mùa Phục Sinh, gọi như thế là vì khung cảnh hồi sinh của thiên nhiên sau khoảng thời gian lạnh giá, trời ấm áp hơn, cỏ cây sẽ phá băng mà ra, động vật hoạt động nhiều hơn. Nhưng thời tiết vẫn khá lạnh so với sức chịu đựng của con người, ban đêm vẫn có gió tuyết rơi lác đác, đây cũng là lúc người dân trong làng bắt đầu vụ mùa đầu tiên, trồng chủ yếu là cây Rosal – loại cây có thể chống lạnh và cho nhiều bột. Cây Rosal vẻ ngoài y hệt hoa hồng trong trí nhớ của Fergal, nhưng nếu bóc cánh hoa ra thì sẽ thấy nhị hoa tròn và to như trái trứng, nhị hoa sau khi hái phải lột sạch phần vỏ màu vàng bên ngoài mới lộ bột Rosal bên trong, lớp bột trắng mịn sẽ được phơi khô, là nguyên liệu chính để làm bánh. Người ta ít khi dùng hoa Rosal để trang trí hay tặng ai, mặc dù nó rất đẹp.
Hai tháng tiếp theo là mùa Hồn Hương, thời tiết cực kỳ ấm áp, không quá lạnh cũng không quá nóng, đây cũng là mùa đẹp nhất trong năm. Đủ mọi loại hoa cỏ sẽ nở rộ vào hai tháng này, trong đó nhiều loại cây có mùi thơm tỏa lan xa khắp mọi nơi, dù ở trong nhà vẫn sẽ ngửi thấy mùi thơm nhẹ nhàng quấn quít của những loài cây cỏ không biết tên. Người dân nơi đây cho rằng cỏ cây hoa lá phát ra hương thơm bởi sự tồn tại của những linh hồn, các tiên nữ bé nhỏ, tinh linh, linh hồn của những người đã khuất,…nơi nào mùi hương càng nồng cũng thể hiện rằng đây là vùng đất phước lành, bởi các linh hồn ưa thích nó nên mới quanh quẩn nơi đây không đi. Nếu đi đến vùng nào hoang vu, ít mùi hương chứng tỏ đó là nơi không tốt, có thể chứa đầy bóng tối, chết chóc bệnh tật, bị những linh hồn linh thiêng từ chối, xa lánh.
Sau những tháng hoa nở rộ, mùa Mây và mùa Hoa phấn vàng khá giống mùa hạ ở trái đất, càng về sau càng nóng. Mùa Mây nóng ẩm, hầm hập như ở trong bếp lò. Hai tháng này mây cứ bao phủ bầu trời suốt ngày, trời cứ xâm xẩm tối. Đôi khi mây nặng quá mà từ trên trời bay dần xuống mặt đất, Fergal cũng không làm sao giải thích hiện tượng này. Mỗi khi mây sà xuống làng y như rằng ra đường không thấy gì cả, chỉ thấy mây trắng khắp nơi, trong không khí có mùi khen khét kỳ quái. Mùa Hoa phấn vàng y như tên, mùa này có loài hoa trông giống cánh bướm hay nở, mỗi khi nở sẽ phóng ra một lượng lớn phấn vàng, bụi vàng cứ bay tứ tung khắp nơi, do hạt bụi nặng nên thường tích đám tầng dưới đất. Tới mùa này là cô giúp việc lại than mệt bởi cứ phải quét dọn nhà cửa không ngơi tay, cứ dọn dẹp được một lát là y như rằng bụi vàng sẽ bay vào và nhanh chóng phủ đầy sàn nhà.
Sau mùa Hoa phấn vàng là mùa Gió Nổi, mùa này lũ trẻ thích nhất vì có thể thả diều cả ngày. Gió từ phương bắc mang tới những ngày mưa thất thường, mùa này cực kỳ bận rộn, người dân trong làng phải lo trồng xen kẽ nhiều loại lương thực để có thể thu hoạch và cất trữ cho mùa sau, mùa Nước dâng.
Mùa nước dâng là thời gian thu hoạch, mọi người phải vội vàng gom hết lương thực tích trữ vào nhà trước khi nước từ các con sông dâng lên nhấn chìm cả ruộng đồng. Giữa mùa, nước sẽ chìm ngập đất đai trong làng, thậm chí có lúc nước nâng lên tới tận bậc thềm nhà Fergal(mà nhà cậu có vị trí cao nhất làng này), người dân trong làng di chuyển bằng con thuyền đan bằng cỏ Trúc, điều làm cậu lấy làm lạ là không chỉ có thuyền lơ lửng không chìm xuống nước, hầu hết cây cối thực vật xung quanh đều lơ lửng như vậy, giống như có ai túm chúng lên treo vào không gian, đặc biệt rễ cây luôn cách mặt nước không quá ba tấc. Chỉ mỗi nhà cửa con người với cây lương thực đều đứng yên, không tự bay lên. Fergal vốn định hỏi Lily tại sao, nhưng lại nghĩ thế nào cô cũng sẽ lôi một đống thần thoại, bát quái của các vị thần này kia để giải thích nên cậu kìm lại, nén nghi vấn vào trong bụng để tương lai tự mình giải đáp.
Mùa nước dâng lại là mùa đánh bắt của người dân trong làng, chỉ cần chèo thuyền lá trúc ra giữa ruộng đồng ngập nước, thả cần câu hay quăng lưới đều có thể bắt được rất nhiều cá. Có năm Joey chèo thuyền dạo quanh làng một vòng, lúc về gom được một mẻ cá Hàm cùng nhiều loại thủy vật khác. Cá Hàm giống như phiên bản cá mập thu nhỏ, con to nhất cũng chỉ dài bằng bàn chân người lớn, nhưng chất thịt rất tươi và ngon, khi chưng lên còn toát ra mùi thơm của sữa. Mọi năm vào mùa này Fergal được ăn rất nhiều loại cá, bên cạnh đó cậu có dịp chứng kiến nhiều loài động vật kỳ lạ bay lơ lửng trên không nom giống cá đuối.
Có hôm Fergal đang quan sát đàn Flyer có hình dáng giống chuột với đôi cánh dơi đang bắt cá ngoài đường làng, nơi đã bị nước nhấn chìm hoàn toàn. Cậu chợt thấy một bóng con chim đang đậu ngoài tường bao nhà Wales, con chim đó rất sặc sỡ, nhìn kỹ thì trông nó giống chim hút mật ở trái đất nhưng đôi chân chim thay thế bằng bốn chân mèo. Con chim hay con thú đập nhẹ đôi cánh, bay là là quanh bờ tường. Dường như nó biết cậu đang nhìn, thế là nó không những không bay đi mà còn tiến gần về phía cậu. Càng gần cậu mới nhìn kỹ có thứ gì đó đang cưỡi trên con chim!
Fergal hoảng hốt một lúc, chờ cậu định thần thì con vật gần như chỉ cách cậu một bàn tay. Fergal bây giờ mới có thể nhìn kỹ thứ đang ở trên lưng nó: một con người bé tý !
Người tý hon cưỡi trên con chim sặc sỡ tò mò nhìn cậu, y mặc quần áo rất lạ, giống như may bằng cánh hoa với lá cây, trên đầu đội một cái mũ nhọn hoắc. Người tý hon có đôi mắt màu xanh lơ, rất to, nước da y có màu xanh lá nhạt, đôi tai nhọn giống như tinh linh. Điều Fergal đặc biệt chú ý đó là đôi râu phía trên mắt người tý hon, hai sợi râu vung vẩy trong không khí y như mấy cái xúc tu làm cậu hơi ghê ghê.
Cả hai quan sát lẫn nhau một hồi, không ai có ý định động đậy trước, chủ yếu là Fergal quá ngạc nhiên nên chẳng biết làm gì, sau đó người tý hon mở miệng nói. Lời của y rất nhỏ, tựa như tiếng lục lạc, không hiểu sao Fergal mơ hồ rõ lời người tý hon, tựa như một lời chào. Fergal liền gật đầu với y, cười một tiếng nói:
– Xin chào! Tớ là Fergal.
Người tý hon lại nói một lúc, tiếng luc lạc vang lên không ngớt, lần này Fergal thật không thể hiểu nổi y muốn nói gì. Nhưng chưa kịp Fergal đáp lại y đã vội vàng thúc con chim – vật cưỡi của y bay đi. Fergal mãi nhìn theo bóng dáng con vật, hình như người tý hon có ngoái đầu nhìn cậu một lần.
Hôm đó Fergal lại nhịn không được kể cho mẹ Lily và cha Joey nghe về người tý hon đó. Mẹ cậu bảo có lẽ đó là tiên, hồi nhỏ ai ai cũng gặp qua vài lần, thậm chí cùng chơi đùa với tiên. Nhưng càng lớn thì không thấy tiên đến nữa, nghe đâu tiên không thích người lớn, họ chỉ thích trẻ con thôi.
Mùa nước dâng kết thúc vào ngày ba mươi lăm, ba tám tháng mười bốn. Không lâu sau đó, thời tiết trở lạnh rất nhanh, chỉ mười mấy ngày tuyết bắt đầu rơi, hai vầng trăng giờ chuyển sang sắc bạc rực rỡ, đánh dấu sự kết thúc của một năm.
Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI