Năm thiên thần thứ 6004, tháng năm, ngày 03, mùa Hồn hương.
Là chủ nhân thứ hai trong nhà Wales, Lily có đầy đủ phẩm chất tuyệt vời mà một người mẹ, một người phụ nữ nên có, cùng với khả năng cảm nhận sâu sắc, nhiều lúc Fergal cũng phải hết sức cẩn thận dè chừng mẹ mình tránh không để lộ những suy nghĩ và tư tưởng vượt quá số tuổi, nhưng điều đó không thể ngăn cản sự hiếu kỳ của Fergal đối với các sự vật kỳ lạ hoặc những hiện tượng trong đời sống.
Tại sao bầu trời có hai vầng trăng? Nước tại sao không trong suốt mà lại có màu trắng ngà? Lửa khi đốt trong cùng điều kiện áp suất và không khí tại sao từ màu đỏ chuyển sang màu lam? Thuyền tại sao lại nổi cách mặt nước ba tất? Tại sao mây có thể hạ thấp xuống tận mặt đất?…Câu hỏi của Fergal nhiều đến nổi Lily đùa rằng có thể đóng thành một quyển sách dày như cục gạch, nhưng Lily không bao giờ phớt lờ mọi câu hỏi của cậu, cô cố gắng trả lời bằng tri thức của mình nhưng vẫn không làm cậu nhóc hài lòng. Lily đành phải bảo nếu cậu biết chữ và ra ngoài làng, cậu có thể tìm kiếm đáp án cho mình.
Từ đó Fergal thôi không đặt câu hỏi cho mẹ mình mà bắt đầu im lặng, mọi người trong làng đôi khi nhìn thấy cậu chủ nhỏ nhà Wales ngồi ngẩn người trước cửa đều cảm thấy làm lạ, còn bảo cậu chủ nhà Wales chắc bị té đập đầu ở đâu mà trở nên ngu đần rồi. Joey và Lily không quá bận tâm người ngoài suy luận thế nào, Lily có cút ưu sầu nhìn con trai, không biết thằng bé trong đầu suy nghĩ điều gì. Fergal ngày càng trở nên trầm tĩnh, đến mức mà Joey cũng nhiều khi cảm thấy thằng bé nhìn y như một ông già vậy.
————————————————————————————————————
Vào đầu tháng năm, ở làng Fergal sẽ tổ chức một lễ hội ba ngày để cúng bái thần mùa màng Oleander và nữ thần mặt trời Phaedra. Đây là hai vị thần lớn và hầu như mọi nơi đều thờ cúng hai vị thần này. Mọi người trong làng đều bận bịu sửa soạn trang trí cho căn nhà và trang hoàng cho lễ hội.
Già làng là người phân công cho từng nhà, gia đình Wales cùng với mười gia đình có nhiệm vụ trang trí cho tượng thần.
Tại khu nhà sau đền thần, hàng đống giỏ hoa cùng với hàng tá sợi dây đủ màu sắc đã sắp xếp kỹ càng, người người đều chú tâm làm việc. Thỉnh thoảng có tiếng cười đùa vang vọng đâu đây. Lily đang dạy cho Fergal cách tết vòng dây hoa đeo lên tượng thần. Nam nữ đều phải làm việc này, ở đây việc làm vòng hoa thậm chí còn tượng trưng cho vinh hạnh. Vì vậy một cảnh tượng kỳ dị diễn ra khi nhiều gã đàn ông trai tráng lại phải ngồi xúm lại nhặt từng đóa hoa xanh đỏ tím vàng, còn phải cẩn thận từng ly từng tý xâu nó thành chuỗi. Khung cảnh ‘‘hường’’ phấn không thể ‘‘hường’’ phấn hơn.
Fergal vung vẩy vòng dây mình vừa làm xong, thấy Lily đang lườm mình cậu đành bĩu môi đặt vòng dây vào cái dĩa lớn ở giữa bàn, cái dĩa đựng cả chồng dây hoa cao ngất ngưỡng. Sau đó, một người phụ nữ to lớn bưng bê vài ba rổ đựng sợi màu đỏ, kích thước chúng to hơn dây xâu vòng hoa. Lily gật đầu cảm ơn người phụ nữ rồi cầm lấy sợi dây đỏ trong rổ, bảo Fergal nhìn:
– Con nhìn này, Fergal. Đây là sợi Alumit, nó tượng trưng cho ‘‘bí mật’’, tùy vào người tết mà ‘‘bí mật’’ của mỗi dây Alumit sẽ khác nhau. Những ‘‘bí mật’’ này sẽ được thần linh trên cao cất giữ cho con, ngoài thần linh thì không ai có thể biết đến ‘‘bí mật’’ của con. Con có thể thầm niệm lời chúc, ký ức xấu hổ, lời tỏ tình, lời cầu nguyện,…thậm chí cả nỗi đau của con, bất cứ điều gì mà con không muốn nói ra đều có thể niệm trước sợi dây này. Con nên để thần lắng nghe nội tâm của mình, dù sao chúng ta không thể nào cứ khư khư giữ lấy nổi lòng của bản thân mãi được. Sẽ lúc chúng ta cần được lắng nghe từ ai đó, mẹ biết con không thích các vị thần của chúng ta lắm, Fergal. Nhưng mẹ cho rằng trong cuộc sống, đôi khi chúng ta không nên chịu đựng tất cả mọi thứ một mình, con cần phải san sẻ bớt gánh nặng trong lòng, như thế con mới có thể sống nhẹ nhõm và thanh thản được. Mẹ tin có nhiều vị thần sẵn sàng làm bạn với con và họ cũng muốn cùng con gánh vác ‘‘bí mật’’ trong tim mình, Fergal. Vậy nên…
Lily nhìn sâu vào mắt con trai mình:
– Hãy làm sợi dây ‘‘bí mật’’ của mình một cách chân thành và nghiêm túc. Được không, Fergal?
Fergal hoàn toàn bị lời nói của Lily làm cho hoảng hốt, cậu lặng yên hồi lâu. Trong khoảnh khắc, vô số câu hỏi cùng nghi vấn tràn vào đầu cậu, cậu không chắc bí mật của mình Lily đã biết hoàn toàn hay chưa, cũng có lẽ đây chỉ là lời dặn dò bình thường của một người mẹ, cô chỉ đang dạy dỗ con trai mình, không hề có ám chỉ nào… hay phải chăng đây là một sự thăm dò?
Tất cả đều không chắc chắn.
Cuối cùng cậu gật đầu với mẹ mình.
Dường như cảm nhận tâm trạng nặng nề của con trai, Lily cười cười bảo:
– Cậu chủ nhỏ của mẹ, mẹ cũng phải nhắc nhở con nếu con dám đưa những lời…không hay vào sợi dây của mình. Đúng, chính là mấy lời xúc phạm, nguyền rủa người khác hay nguyền rủa cả th…- cô chỉ lên trên – thì con sẽ không thể nào tết được dây ‘‘bí mật’’ của mình đâu. Con có thể thử nếu muốn.
Fergal nhướng mày, thật sự tò mò, cậu liền chọn lấy một sợi màu đỏ, nói thầm trong bụng mấy câu chửi rủa lung tung. Sau đó cậu bắt đầu tết dây, cách tết cũng không phức tạp, nó tựa như đan nón ở trái đất vậy. Nhưng không hiểu sao, nếu không nhầm nút thắt thì dây bị rối giữa chừng, có khi đang kéo nhẹ nhàng dây cũng đứt đoạn. Thử mấy lần đều không được, Fergal giơ tay đầu hàng. Cái dây này linh nghiệm dữ vậy trời!
Nhìn con trai xoắn suýt không hiểu, không ngừng giơ lên xem xét sợi dây, Lily mỉm cười. Cô biết con mình rất tò mò với mọi chuyện, dù những chuyện đối với mọi người là lẽ đương nhiên, không cần phải giải thích nhưng Fergal vẫn muốn truy xét đến tận cùng nguồn gốc của nó. Cậu luôn bị những chuyện lạ hấp dẫn, về điều này không ai hiểu rõ con mình như Lily. Những lúc như thế, thằng bé trông giống như những đứa trẻ con bình thường, ngây thơ và tràn đầy hiếu kỳ với thế giới.
Sau khi tết được khá nhiều sợi dây Alumit, Fergal cùng với Lily sắp xếp và treo chúng lên giá phơi. Hầu như nhà nào trong làng cũng làm sợi dây này, bởi Fergal thấy liên tục có người bên ngoài đền cầm theo vài bó Alumit đã tết sẵn, chúng sẽ được ngâm qua nước thánh để tẩy rửa dơ bẩn, sau đó mới phơi lên giá. Fergal đếm được hơn hai mươi giá phơi đầy sợi ‘‘bí mật’’, hình như ai ai đều có rất nhiều bí mật của mình. Những sợi dây này thường sẽ treo khắp phòng để tượng thần, hoặc lên cây phượng khô – loài cây luôn rụng hết lá vào mùa này. Fergal cũng thấy bên ngoài làng, ở trước một số nhà cũng quấn dây Alumit đã làm xong lên cây cối trong vườn, cũng có nhà vắt nó lên trước hiên, vô tình tạo thành một cái rèm cửa đỏ trông rất thích mắt. Những dây tràn đầy ‘‘bí mật’’ phủ khắp làng, cứ theo gió mà khẽ rung động, tạo thành vô vàn cơn sóng đỏ nối tiếp nhau không dứt.
Một hiện tượng kỳ quái của dây ‘‘bí mật’’ đó là sau khi tết và phơi xong ba ngày, dây sẽ xuất hiện một số hoa văn, mỗi dây là mỗi hoa văn khác nhau tương ứng với màu sắc riêng biệt. Hoa văn trên dây Alumit của Lily trông giống như những cánh hoa cúc, đường nét mảnh như sợi tơ, chúng luôn phản chiếu ánh vàng vào ban đêm. Còn của Fergal giống như bị mực cọ phun lên vô số đốm đen, có vài đốm đen dẹt dẹt như chiếc dĩa, một số chỗ in nguyên một hình tròn màu đen, ngoài ra chúng còn phủ một lớp bụi vàng, đó là khi nhìn ngoài sáng hay ban ngày,. Nhưng nếu nhìn vào ban đêm, Fergal kinh ngạc khi thấy sự biến đổi của chúng: bụi vàng phát sáng còn sắc đỏ của dây Alumit hoàn toàn biến mất, thay vào đó là màu tím đậm chìm hẳn trong màn đêm, có cảm giác như nhìn vào một dải ngân hà tràn đầy ánh sao, xa xa có thể nhìn thấy một vài hành tinh chuyển động.
Fergal giờ đây nhớ tới lời Lily từng nói : dây Alumit cất giữ bí mật của mỗi người.
Công việc trang hoàng cho đền thần sắp hoàn tất, Fergal cùng với Lily giờ chỉ cần sắp xếp một số đồ cúng, hoa cỏ lên bệ cúng ngoài trời. Vào ngày lễ, người dân sẽ làm thịt một con cật có ba sừng, thân và bốn chân như con dê nhưng có đuôi tràn đầy lông vũ như chim để tế trước tượng thần. Joey và nhiều người khác đã phải vào rừng tìm ròng rã năm ngày trời mới bắt được con vật này. Chủ yếu là do nó chạy rất nhanh, lại hay theo bầy đàn nên việc dụ một con rồi bắt hết sức khó khăn, phải dùng đến cả thuốc nổ mới săn được một con như thế.
Ở nhà, do Lily và Joey tôn thờ hai vị thần khác nhau, nên cách trang trí và chuẩn bị của hai người đương nhiên có sự khác biệt rõ rệt. Trước đây họ đã từng tranh chấp việc này nhiều lần, nhà phải trang trí cái gì, kỵ cái gì, cấm ăn gì ,…v…v. Sau đó, khi Fergal ra đời, cả hai đành nhượng bộ để tránh mất hòa khí, vào ngày lễ trùng nhau của hai tôn giáo, hai người sẽ ăn riêng, không ngủ chung một phòng mà ở tách biệt hai phòng. Sẽ có hai phòng thờ cúng riêng của họ, ngoài ra căn nhà sẽ chia đôi, bên trái do Lily tiếp quản, bên phải của Joey. Thế nên vào ngày lễ này, Fergal có thể thấy ngôi nhà được trang trí theo hai phong cách bất đồng: dãy nhà bên trái giống như một vườn hoa, dãy nhà bên phải như bị khủng bố (đó là do Joey sơn sơn vẽ vẽ lên tường mấy ký hiệu kỳ dị, nhìn rất giống cái đầu lâu, Joey còn treo thêm mấy cái đầu thú săn được trước cửa phòng ngủ).
Hầu như cả Joey lẫn Lily không nhìn thấy nhau cả ngày vào thời gian này, lúc Lily ‘‘tụng chú’’ trong phòng thì Joey lại đang lay hoay làm thịt một con thú săn được, lúc Joey cầu nguyện thì Lily lại phải tất bật trong bếp nấu ăn. Cứ như thế, thành ra vào bữa tối may ra cả nhà mới có thể tề tựu lại một chỗ, đương nhiên có khi Fergal phải ăn một mình và phải sang nhà hàng xóm ngủ do kiêng cử của Lily lẫn Joey. May thay một năm chỉ có bốn lần cha mẹ Fergal làm lễ riêng và ở riêng.
Nhà Wales vào thời gian này thường sẽ tổ chức dọn dẹp một lần, sau đó họ sẽ dùng một lớp màu vẽ tự phai để vẽ tranh lên tường, phần này phải nhờ cô giúp việc và mẹ Lily bởi hai người vẽ rất khéo tay, thường họ sẽ vẽ mấy cái hình thù trừu tượng của một số con vật hay vệ thần. Một số vệ thần theo tín ngưỡng nơi đây tượng trưng cho điềm lành, nếu vẽ chúng lên tường không chỉ mang may mắn phước lành đến mà còn có thể xua đuổi tà ma, quỷ quái.
Trong khi Lily vẽ, Fergal và Joey cùng bắt tay nghiền bột cây Mặt trời, đây là loại nguyên liệu chính để có thể nặn tượng. Loại bột này rất tiện dụng, chỉ cần đêm võ cây giã nhuyễn, có thể thêm một vài cánh hoa để tạo màu sắc, cũng có thể nhỏ vài giọt tinh dầu tạo thêm mùi thơm,..v…v sau đó đổ một chút nước sạch và bùn đất trộn lại với nhau theo tỷ lệ ba bảy. Lớp bột sẽ sắn lại trở thành đất Mặt trời, rồi sau đó muốn tạo hình, đắp nặn cái gì cũng được, phơi khô một ngày tượng đất sẽ khô và cực kỳ cứng. Thường vào ngày lễ lớn, Fergal sẽ cùng Joey nặn mấy tượng thần theo kích cỡ bé bằng bàn tay, hình dáng trông giống như ông lật đật ở trái đất, thường gọi là ‘‘vỏ ngoài’’ của thần, nặn càng nhiều càng tốt. Sau khi phơi khô tượng, Joey sẽ sắp xếp các tượng phiên bản ‘‘mini’’ này thành một hàng bao vây căn nhà nom rất ngộ nghỉnh.
Người ta cho rằng, nếu nặn tượng thần và để chúng ở bên ngoài, khi thần đến chúng có thể trở thành một ngôi nhà nhỏ cho thần linh, thần có thể trú ngụ ở bên trong. Tượng đất Mặt trời tượng trưng cho lòng hiếu khách , lời mời chào đối với các sinh linh vĩ đại. Người dân hy vọng khi thần đến vùng đất của mình, thần có thể du ngoạn và ghé thăm nơi đây lâu hơn.
Công việc trang trí sắp hoàn tất, Lily đã vẽ xong tranh tường, vệ thần mà cô vẽ có tên Nelly, một vệ thần phục vụ nữ thần mặt trời, Nelly có hình dáng giống như cáo với đôi tai dài và to hơn, nó có ba chiếc đuôi. Vệ thần này có lớp lông trắng muốt, giữa lưng vẽ hoa văn với vòng tròn màu đỏ có các vạch sáng tỏa ra, giống như mặt trời. Chóp đuôi và chóp tai nó đều nhuộm đỏ. Cô giúp việc đã treo xong những tấm vải hình chữ nhật màu vàng dài mấy thước ở bên ngoài các phòng tại tầng lầu, người ta treo chúng để cầu may và chúc mùa vụ được tốt đẹp.
Bên cạnh đó, Joey còn đặt thêm nhiều tượng ở cạnh cửa sổ, đầu giường, trên mái nhà. Nhìn hàng dài những tượng đất, nhất là vào buổi chiều tối, ánh sáng mờ mờ chiếu lên khuôn mặt vô hồn của chúng thật khiến người ta liên tưởng tới ma quỷ, đó là suy nghĩ của Fergal, hầu hết mọi người đều cảm thấy chúng thật đáng yêu. Những sợi Alumit treo ở cây cối ngoài vườn giờ đã chuyển màu, chúng tung bay trong gió với những hoa văn kỳ lạ, một số còn giữ nguyên sắc đỏ, màu sắc ấy điểm xuyến lên bức tranh xanh ngát của khu vườn làm khung cảnh thêm phần sinh động, ấm áp.
Khi tiếng trống và tù đều nổi lên, mọi người đều bỏ công việc dang dở và tụ về trước đền. Lễ hội bắt đầu với tiếng ca hát bên ngoài đền thần Oleander và thần mặt trời Phaedra. Các cô gái xinh đẹp trẻ trung, độ khoảng đôi mươi đều mặc những chiếc váy xòe để cùng nhau nhảy múa ở khoảnh sân hình tròn bên dưới bệ thờ cúng tế. Lily hôm nay trông thật rạng rỡ khi mặc một chiếc váy xòe dài tới chân màu hồng nhạt, bên hông buộc dây lụa màu trắng, cô còn giắt thêm hai cái Nabulum tròn màu vàng, chúng phát ra tiếng leng keng giống lục lạc mỗi khi cô bước đi. Do đã kết hôn nên cô sẽ quấn khăn trắng lên đầu, đương nhiên cô chỉ nhảy với chồng mình.
Nhà nhà trong làng đều bưng một món ăn lên bệ thờ cúng, khi đến nửa đêm, thầy tu cùng với già làng sẽ thiêu rụi chúng cùng với con thú ba sừng, họ tin rằng khi đốt chúng, thức ăn mới có thể được đưa tới trước thần linh. Điều này khá tương tự với việc đốt vàng mã ở trái đất, chỉ khác là nguyên liệu.
Mọi người nhảy múa và ca hát suốt ngày, luôn có người phụ trách âm nhạc, kèn sáo. Cứ cách một giờ sẽ có người bưng bê các món ăn lên dãy bàn kê sẵn ngoài trời để mọi người cùng thưởng thức. Thức ăn trong ngày lễ này là món bánh bột màu đỏ có vị giống bơ, trứng chim áp chảo, thịt nướng, chim Dodo hầm với thảo dược (loại chim có bộ lông đỏ chót, vị giống thịt heo, Fergal ăn nhiều món này nhất), cá Hàm nướng kèm sốt trái cây được mang lên sau thịt chim và món cuối là một loại cá có hai vây trên đầu, cá này ăn rất béo cho vào miệng là tan ngay,…Bánh ngọt của bà góa phụ Generosa hầu như bị ăn sạch trong tích tắc, Fergal chỉ kịp chộp lấy ba cái bánh hình tam giác nướng giòn và chúng nhanh chóng vào bụng cậu, phải nói bánh này ăn ngon tuyệt! Một số bánh mặn mà Lily cùng với các bà bạn chế biến đều được mọi người rất hoan nghênh, Fergal được Lily ưu đãi một dĩa bánh đầy ắp, đủ các chủng loại, trong đó có cả bánh của bà góa phụ Generosa.
Hoạt động trong lễ hội ngoại trừ ca hát, nhảy múa ra cũng có rất nhiều thứ thú vị. Trò chơi phổ biến của dân làng là ném cỏ Bay, loại cỏ này có màu xanh nhạt, hơi ngả vàng, do phiến lá cực kỳ mỏng và nhẹ nên có thể theo gió bay rất xa. Lũ trẻ trong làng thường hay tự tổ chức các cuộc thi xem ai ném xa hơn, chúng buộc một cành cây ngắn cỡ ngón tay với bốn lá cỏ Bay, các phiến lá phải xếp khít nhau và xếp cùng một phía thì khi ném mới có thể bay lên cao. Thằng nhóc Jordan, con nhà Fuentes luôn ném được cao và xa nhất, có lần nó đạt kỷ lục khi từ bờ sông bên này phóng sang tuốt cánh đồng cỏ ở mạn sườn núi, Fergal nhẩm tính phải dài đến một cây số.
So với ‘‘phi tiêu’’ của lũ trẻ, cái phi tiêu cỏ Bay mà người lớn chơi được làm khá là cầu kỳ và công phu. Thường họ sẽ chặt một khúc cây rỗng ruột dài bằng cả sải tay người lớn, tùy vào độ dài của cây mà họ sẽ tính tỷ lệ xếp từ hai mươi đến bốn mươi lá cỏ Bay, những lá cỏ phải dài gấp đôi hoặc gấp ba chiều dài cây gậy. Tiếp đến, người ta cắt tấm vải mỏng, chiều ngang và chiều dài cỡ một sải tay rưỡi, lại lấy thêm ba cành cây với kích thước tương tự để may thành một con diều tam giác. Sau đó, người ta còn phải tìm lông vũ của nhiều loài chim, phải là lông to và nhẹ, màu sắc sặc sỡ. Bước cuối, họ sẽ vót nhọn đầu cây gậy làm sườn chính, buộc sườn vào giữa con diều tam giác và phải đặt con diều sát cạnh lá cỏ Bay, sau cùng gắn lông chim vào đuôi phi tiêu. Khi ném, người chơi phải chạy lấy đà mười mấy bước mới có thể phóng được. Khu vực ném đương nhiên phải ở trên cao nên thường người dân trong làng sẽ chọn ngọn đồi Vailyn đằng sau đền thờ để ném.
Khoảng ba giờ chiều, gió thổi mạnh, người chơi ném cỏ Bay bắt đầu xếp hàng dài trên đồi, xung quanh người lớn lẫn trẻ con đều thích thú, trò chuyện đùa giỡn luôn tay luôn chân. Người xem phải ở dưới đồi, không được đi vào khu vực ném, vì đôi khi hướng gió đổi có thể khiến phi tiêu bay ngược lại và phóng vào chỗ người xem.
Người quản trò và cũng là người ra hiệu lệnh là một gã đàn ông lực lưỡng, có vết sẹo nhạt dưới cằm, gã thường gọi là Philemon, tay này hay ưa thích huýt sáo trêu ghẹo đàn bà con gái trong làng. Thấy ai xinh đẹp là gã càng huýt dài và to, điều làm người căm phẫn là gã huýt sáo rất hay, có giai điệu đàng hoàng, hơn thế nữa gã ném phi tiêu rất chuẩn và cực kỳ xa. Nhiều năm gã đoạt giải nhất trò này, sau đó gã chuyển sang làm quản trò ném Phi tiêu bay luôn. Nhiều cô gái ế chưa chồng đều khá thích gã, thấy gã tới là phải õng ẹo một phen.
Gã này cũng có chút dây mơ rễ má với gia đình Wales, gọi là bà con xa của Lily, cơ mà Fergal chưa bao giờ thấy mẹ nhắc tới gã. Joey khá là căm tức gã, bởi anh thường thấy gã huýt sáo ghẹo Lily. Nhưng ngại nổi quan hệ của hắn với Lily nên Joey chưa tìm được dịp cho gã một trận.
Khi người tham gia thi đầu đều chuẩn bị sẵn sàng, tất cả xếp thành một hàng ngang dài, cách họ vài bước là vạch xuất phát được vẽ bằng sơn đỏ. Khi gió nổi lên, mọi người đều nhìn về Philemon, gã giơ một tay lên để ra hiệu cho người chơi sẵn sàng. Người chơi đều tự lùi về sau cách vạch xuất phát mấy thước, có người lùi hẳn hơn ba chục mét.
Người người vây xem tự giác yên tĩnh lại, tất cả đều nín thở quan sát cuộc thi. Joey bồng bế con trai mình trên vai, len lách đám đông, cố gắng tìm chỗ có góc nhìn tốt. Sau khi tìm được một chỗ khá thoáng, tầm nhìn ít bị che khuất, Joey hào hứng kể với Fergal về người chơi:
– Đó! Đó…Cái chú đầu đội mũ đỏ có gắn lông chim Dodo ấy, con để ý thấy không? Chú ấy là bạn của cha, con có thể gọi chú ấy là Braylon, nếu về tài làm phi tiêu bay là số ‘‘dzách’’ trong làng! Cha cũng có một cây phi tiêu của cậu ta, nhớ hồi còn trẻ cha và chú ấy cũng hay thi thố nhau ai làm phi tiêu tốt nhất, cơ mà chiếc nào Braylon làm ra cũng bay xa nhất, đương nhiên của cha chỉ đứng thứ hai thôi…Còn cái người đứng ở mé trái, ở vị trí thứ ba từ đếm ngược lại là Chazz, anh ta ném phi tiêu khá tốt, trước kia Chazz cũng sống gần nhà chúng ta, nhưng mấy năm sau thì chuyển về chân núi …
Tiếng còi lanh lảnh vang lên, cuộc thi đấu đã đến giờ. Trong số người chơi, Fergal để ý có một gương mặt trẻ, người này trông khoảng mười bảy mười tám tuổi, khoác áo da màu đen bó sát người, tóc y xoăn dài và tết đuôi xam. Cậu thanh niên này đội cái mũ trông rất đẹp mắt, nó làm Fergal nhớ tới những chiếc mũ bạc của người Miêu ở quê hương, đương nhiên giữa hai loại mũ này vẫn có sự khác biệt rất lớn, điển hình như mũ của người thanh niên kia ở sau gáy thả thêm hai dây tua dài tới thắt lưng tựa như hai lọn tóc, đồng thời màu sắc chính của mũ là màu xanh lam đậm. Phi tiêu của cậu chàng này trông khá đơn giản, màu sắc nhợt nhạt, thậm chí cả màu lá cỏ bay cũng bạc phết. Với những người thâm niên làm phi tiêu hiển nhiên chiếc của cậu ta hoàn toàn không đạt tiêu chuẩn, màu sắc và hình thức của phi tiêu khá quan trọng, nó thể hiện chính tâm hồn và ưa thích của người làm, càng đẹp thì chứng tỏ tâm huyết người thợ bỏ ra rất lớn, thế nên cậu thanh niên trẻ tuổi ngay lập tức bị người trong nghề liệt vào hình mẫu của người làm việc gì cũng sơ xài.
Khán giả xung quanh bắt đầu ồ lên kéo sự chú ý của hai cha con, Fergal ngước nhìn những chiếc phi tiêu đã rời khỏi tay chủ nhân, chúng như được gắn hỏa tiễn mà vút bay thẳng vào không trung, càng lúc càng bay cao hơn.
Chiếc phi tiêu dẫn đầu có cánh diều màu vàng khá bắt mắt, tiếp ngay sát là phi tiêu có cái đuôi cực dài và cực kêu, bởi nó gắn thêm một chùm Nabulum ở phần đuôi – chiếc này là của một tay thợ điêu khắc có tiếng trong làng. Vị trí thứ ba thuộc về phi tiêu của Braylon, chiếc của ông chú gắn một chùm lông vũ đầy đủ màu sắc hoa văn, Fergal có cảm tưởng như nhìn một con gà phóng vèo vèo trên trời. Điều ngạc nhiên là phi tiêu của cậu thanh niên đội mũ vừa rồi chiếm giữ ở vị trí thứ tư, trong khi đó tổng số người chơi ước chừng hơn ba mươi người.
Theo thời gian, những chiếc phi tiêu Bay không hạ thấp xuống mà tựa như những chú chim luồn lách theo hướng gió, tự do bay tới chân trời của mình.
‘‘Chân trời’’ của phi tiêu lông gà sớm an vị trên cánh đồng xa cách đồi Vailyn khoảng hai cây số, là đồng đội duy nhất bị bỏ lại trong ‘‘đàn’’ phi tiêu. Nói về điều này Joey cứ đổ lỗi tại hướng gió đổi đột ngột, rằng phi tiêu phía sau đâm ngang thế nọ thế kia nên chiếc của Braylon mới sớm rớt xuống. Vị trí dẫn đầu giờ đây bị một phi tiêu có cánh diều đỏ soán ngôi, cái phi tiêu gắn Nabulum vẫn giữ vững vị trí thứ hai, còn của anh chàng đội mũ lần nữa khiến mọi người ngạc nhiên khi nó nhẹ nhàng tiến lên vị trí thứ ba. Phen này dù anh ta có đạt chức quán quân hay không nhưng cũng đủ khiến những kẻ trong nghề phải lau mắt mà nhìn.
Hầu hết mọi người đã lục tục đi xuống đồi để chạy theo phi tiêu nhìn cho rõ. Cha con Joey cũng đi theo, có nhiều người chạy bộ, cũng có người dùng xe thú kéo hoặc cưỡi trên con Monit – loài gia súc chuyên ăn cỏ hiền lành có hình dáng khá giống khủng long ăn cỏ. Nhà Wales có khoảng mười con Monit, phần lớn cho cày ruộng, chỉ để vài con để khi đi lại trong làng hoặc kéo hàng. Hôm nay Joey đã chuẩn bị sẵn một con Monit cho việc này, lần đầu tiên cưỡi trên con vật làm Fergal rất hưng phấn, tốc độ của nó nhanh không kém gì ngựa, chỉ mỗi tội ngồi khá sóc nảy.
Đám người thi đấu phải ở nguyên trên đồi để tránh việc gian lận, có mười người chờ sẵn bên kia cánh đồng cách nơi đây khoảng bảy cây số để đánh dấu vị trí phi tiêu đáp xuống, đương nhiên cũng có rất nhiều dân làng đã háo hức chực chờ ở tại đây.
Rất nhanh cha con Joey đã bắt kịp những chiếc phi tiêu trên trời. Đến bây giờ Fergal không tài nào hiểu nổi bằng cách nào mà mấy phi tiêu Bay có thể bay xa như thế? Cơ mà cậu cũng không định tìm hiểu nguyên nhân sâu xa, dù sao có nhiều thứ không biết thì cũng tốt.
Mọi người vừa chạy theo vừa dõi mắt ngóng trông, thi thoảng vẫn có vài chiếc đánh vòng hoặc chúi xuống, linh hồn mọi người như đi theo những chiếc phi tiêu Bay kia, họ reo hò khi thấy chúng vẫn vững vàng tiến xa, lo lắng tiếc nuối khi chúng gặp phải gió cản, phải dừng bước trên con đường của mình. Mỗi chiếc phi tiêu là mỗi con thuyền lướt trên sóng nước mây xanh, và chúng mãi chở che hy vọng tới tương lai, tới những vùng đất chưa biết. Dường như trong một thoáng lắng đọng của thời gian, tự chúng đã tìm ra ý nghĩa của riêng mình, một ý nghĩa đúng đắn.
Kết thúc cuộc thi ngày hôm đó, sau khi quay lại đồi Vailyn, giám khảo công bố kết quả:
– Mười hai Ki, người thắng là cậu Kiril Alerio!
Ki là đơn vị đo chiều dài, một ki dài nửa km, như vậy cái người tên Kiril đã ném phi tiêu bay xa tới tận sáu cây số! Từ trước tới nay chỉ có Philemon ném dài nhất, nhưng quãng đường phi tiêu đi được chỉ từ sáu đến tám Ki.
Người xem xôn xao cả lên, hiển nhiên kinh ngạc ai đã phá kỷ lục cao nhất từ trước đến giờ của Philemon. Joey cùng con trai đã sớm theo người dân trở lại ngồi chờ kết quả, nghe công bố của giám khảo, Joey cảm thấy hơi lạ. Từ trước tới nay ở làng này anh chưa từng biết qua ai có cái tên như thế… Hình như họ Alerio vốn ở bên ngoài làng mới có, bởi Alerio là họ phổ biến của một số tầng lớp quý tộc cổ. Nhưng tại sao người bên ngoài lại tìm đến cái ngôi làng xa xôi, hẻo lánh này?
Và người bước ra càng làm đám đông sôi trào – chính là cậu chàng đeo mũ xanh mà Fergal từng nhìn thấy. Trước cái nhìn ngưỡng mộ và ngạc nhiên của dân làng, người thanh niên trẻ tuổi tiến tới trước tượng thần cúi người cảm tạ theo nghi lễ, tiếp đến già làng và Philemon trao cho Kiril một tấm áo choàng dệt từ tơ cây Ngọc trắng, một cây cung có gắn lông chim nào đó mà Fergal không biết tên, nó nạm bạc hai đầu, cuối cùng là một rương đựng bạc nhỏ cỡ bàn tay. Joey giải thích cho con trai về ý nghĩa và giá trị của tấm áo choàng với cây cung :
– Áo choàng Apollos giá trị thì khỏi nói rồi, ở làng ta phải đổi ba con Monit mới được một tấm áo như thế, nhưng chỉ ai đã chiến thắng mới được mặc, bình thường không ai mặc nó cả. Còn cây cung cậu ta cầm nói thật cha nhìn cũng phải đỏ mắt, đó là cây Trăng Bạc Tháng 4! Mẹ nó! Xem ra lão già làng năm nay chơi lớn rồi…- Joey tiếp tục nói mấy câu thô tục nhưng âm thanh quá nhỏ, Fergal không nghe rõ, sau khi kích động một hồi anh mới tiếp tục giải thích tường tận về thứ hạng chất lượng của cây cung – Con biết cha thờ thần Benedek vĩ đại, vị thần săn bắn và là chúa của hoang dã mà phải không? Với giới thợ săn như cha ngoài mong đợi sự vĩ đại của thần linh ở trên (tiếp tục tha thứ cho hành vi bắt trộm con mồi của Benedek), cây cung là thứ tuyệt đối không thể thiếu, thậm chí nó quyết định cuộc săn bắt có thành công hay không. Theo cha biết có mười lăm loại cung tốt nhất, Trăng bạc với hệ liệt mười bốn tháng đứng ở vị trí mười hai trong số đó, làng ta chỉ có duy nhất nhà Wright làm được loại cung này, hơn nửa mỗi năm chỉ cho ra lò đúng mười bốn cây!
Joey trong lòng hối tiếc không thôi, sớm biết có giải thưởng như thế anh đã sớm tham gia rồi, mọi năm chỉ thấy tặng thưởng áo choàng với bạc, đôi khi một số lá bùa phúc lành hay vài con Monit. Sao năm nay lão già làng lại đổi gió thế nhỉ?
Fergal nhìn biểu tình hối tiếc của Joey, trong lòng hơi thấy làm lạ, nhà Wales rất giàu có, có thể nói số một số hai trong làng, chả lẽ loại cung này mắc đến ngay cả Joey cũng không mua nổi? Fergal đem nghi vấn trong lòng nói cho Joey biết, chỉ thấy anh tiếp tục buồn bã trả lời:
– Oái ăm ở chỗ nhà Wright chỉ bán cho người họ muốn bán, có khi làm xong thì giữ lấy không bán ra ngoài, hoặc có một số quý tộc biết đến đều tranh nhau mua hết. Bên cạnh đó, chỉ có thợ săn trong làng mới mua thứ này, ai có được một chiếc Trăng Bạc như thế may mắn phải biết, con đừng nghĩ mua một cây tương tự từ tay họ , có điên mới đem bán thứ mưu sinh của mình.
Fergal có chút đồng cảm với Joey, cậu thực tự nhiên vỗ vỗ vai Joey, Joey dường như vẫn còn đang bận ghen tỵ ngắm nghía cây cung nên không để ý đến hành động của con trai, hai cha con an ủi nhau xong một hồi rồi quyết định về nhà. Bên kia, anh chàng Kiril bị một đám người vây quanh, có nhiều cô gái cảm thấy thiếu niên này tuy mặt còn búng ra sữa nhưng không ngại cho cậu một nụ hôn tỏ ý tán tỉnh, mấy ông thợ làm phi tiêu cũng xáp xáp lại, định ‘‘mồi chài’’ anh ta để thăm dò bí quyết. Sắp tới có lẽ cha con Fergal và rất nhiều cánh mày râu trong làng sẽ bị tin tức của Kiril Alerio đóng kén lỗ tai.
Vào ngày cuối cùng của lễ hội, sau khi vui chơi một hồi, hai cha con nhà Wales đi đến quán rượu Chồi Hoa ở giữa làng. Nói thật đây là lần đầu Fergal đến mấy nơi thế này, nếu không phải hôm nay ngày lễ quan trọng còn lâu mẹ Lily cho con trai cưng của mình đi, Lily còn dặn dò chỉ được uống rượu trái cây hay nước ngọt, cô mà biết Fergal lén uống rượu dành cho người lớn thì nhà kho buổi tối sẵn sàng cho cậu đến ở.
Quán rượu nước Chồi Hoa nằm đối diện một đồi hoa lựu nhỏ, chủ quán là quý cô Amiah Wendy May xinh đẹp, ngày lễ này quán sớm chật ních vô số bợm nhậu, người mộ danh hay mấy kẻ thầm mếm bà chủ quán đều chen chúc nhau cố tìm cho mình một chỗ tốt. Cha con Joey khi đi tới nơi thì ngay cả cửa cũng khó đi qua, Joey là khách quen nên đánh vòng ra bên hông quán, Fergal quan sát thấy quán rượu có ba tầng, xây theo phong cách Gothic, bên trong lẫn bên ngoài sơn màu gỗ xám. Qua mấy khung cửa sổ, cậu có thể nghe thấy tiếng ồn ào náo động và bóng người nhấp nháy bên trong. Cuối cùng họ cũng tìm được thang gỗ cũ kỹ bị bỏ quên trong góc, nó dẫn thẳng vào khúc cuối bên trái hành lang, chỗ hành lang này bị cánh cửa lối vào che chắn hơn phân nửa, nhìn không kỹ còn tưởng hành lang đi hết ở đây, nếu không thông thạo ngõ ngách quán rượu sợ khó ai nhìn ra vẫn còn một lối vào quán.
Đập vào mắt Fergal là khung cảnh nhộn nhịp tại lầu hai quán Chồi Hoa, mấy bàn rượu ngồi tụm năm tụm ba người, ngoài ra cũng có một số phụ nữ ngồi riêng bên cửa sổ, một vài gã đàn ông đứng luôn lên bàn ca hát, giọng ca khó nghe cực, cơ mà nhiều người vẫn cổ vũ cho gã. Trước khi vào Joey chỉ Fergal một bức tượng thần phiên bản nhỏ treo ở cửa:
– Đây là thần rượu Dio, con phải chạm tay vào chân tượng, đây là nghi lễ bắt buộc ai vào đây cũng phải làm, cho dù con không tôn thờ hay không. Con nên hiểu việc này biểu thị sự tôn trọng và biết ơn thần đã ban cho con người một thứ thức uống tuyệt vời. Nào! Nhanh lên con trai!
Fergal gật đầu làm theo, thông qua lời dạy của Joey cậu còn hiểu thêm về cách nhìn nhận của con người đối với thần linh, với những ý chí siêu nhiên. Người ở thế giới này tôn giáo rất nhiều, nhưng họ hơn người trái đất ở chỗ tự biết dung hòa mọi tín ngưỡng, họ chấp nhận những niềm tin khác đồng thời giữ vững niềm tin của mình. Nhìn điều Joey dạy cho Fergal tưởng đơn giản, nhưng đem suy nghĩ này bắt mọi người tự hiểu và tuân theo như thói quen hay tập quán thì thực sự rất đáng ngạc nhiên, thử hỏi vào thời đại nào của Trái Đất không có mấy lần chiến tranh tôn giáo? Thậm chí đến thời hiện đại Ấn độ hay Ả rập vẫn còn lộn xộn xung đột tín ngưỡng.
Một số người có vẻ quen biết Joey ngay lập tức nhận ra anh, gã đàn ông có cái đầu bóng lưỡng hô lên:
– Ôi chao! Anh bạn Wales của chúng ta cuối cùng cũng tới rồi! Nào, chơi một chầu không?
Joey cười khổ lắc đầu với gã cùng đám bạn nhậu:
– Hôm nay không được rồi, tôi còn mắc cái của nợ này đây – Nói rồi anh bế Fergal lên. Đoạn anh bước tới bàn của gã nọ, mấy tay bợm nhậu trong đây đều quen Joey cả, rất nhanh có nhiều gã sấn tới. Một người huýt sáo nhìn Fergal:
– Ai đây, chà chà…! Quý tử độc nhất nhà Wales đây mà! Anh Joy của chúng ta thật có phước, nhìn thằng bé lớn lên chắc còn giỏi giang hơn cha nó!
– Ồ ồ! Cậu chủ nhỏ Fergal phải không? – Một gã có hàm răng vểnh, cười khà khà hỏi. Liên tiếp nhiều người cũng bàn tán về nó:
– Đâu? Thằng nhóc đấy à? Nó trông còn nhỏ thế?
– Tôi ở cuối làng cũng phải biết tiếng nó cơ đấy! Thằng nhỏ nhà tôi cứ thích bám mông nó suốt.
– Cái mũi cái miệng giống y cha nó, có mỗi con mắt là khác,…- đây là một bà thím nào đó.
Fergal cảm thấy ngượng vô cùng, bị nhiều ‘‘người lớn’’ nói chuyện về nó thật sự quái thế nào ấy, tuy rằng lời lẽ cũng không thô tục hay tỏ ý chế giễu. Joey cười toe toét, rõ ràng anh khá tự hào về con trai mình. Làng này ai không biết đến cậu chủ nhỏ nhà Wales cơ chứ? Mỗi khi nghe người ta nói thế anh đều cảm thấy sướng rơn.
Một tay ăn mặc theo phong cách cao bồi nhân cơ hội mồi rượu:
– Các quý ông! Hôm nay chúng ta phải nâng cốc chào đón con trai của cậu Wales nào! Một…hai…ba…Dzô!
Mọi người cười ầm ầm và đều đồng loạt uống thêm một cốc, Joey nở hết cả mũi, cũng kêu phục vụ mang lên một bình rượu lớn. Thấy thế, Fergal liền ghé vào tai cha mình nói:
– Con nhớ mẹ chỉ cho cha uống tối đa năm ly, cha phải kìm lại một chút. Đương nhiên quyết định của cha là trên hết, buổi tối con không ngại đắp chung chăn với cha ngoài phòng kho đâu.
Ngay lập tức, Joey quay đầu gọi lại phục vụ vừa mới đi:
– Này! Chờ đã!… Tôi đổi ý, lấy một bình rượu xanh như thường khi thôi!…Lấy thêm một ly nước hoa quả nữa.
Phục vụ gật đầu, nhanh chóng luôn lách qua đám người. Rượu ở quán này rất thơm, chúng loại đa dạng bắt mắt, hầu hết mọi người trong quán đều uống rượu có màu vàng, thường rượu chia làm năm cấp độ theo màu: mạnh nhất là đỏ, tiếp đến là xanh lơ, vàng, xanh lục và trắng. Rượu nơi đây được làm bằng men ủ của ngũ cốc với một số loài thuốc nào đó, uống vào giúp bồi bổ cơ thể, tác dụng phụ cũng y như rượu trái đất. Nhưng có lẽ do thành phần nguyên liệu khác biệt nên mùi vị giống như là sự pha trộn giữa rượu với nước hoa quả, cay cay, nóng nóng, ngọt ngọt chua chua, rượu càng mạnh thì vị chua ngọt càng giảm.
Fergal sau khi uống xong nước hoa quả, thấy có ông chú ngủ gật bên cạnh, phục vụ bưng rượu lên mà không uống để trên bàn, cậu liền lén nhấm thử một tý, ngay lập tức cậu cảm thấy trời đất quay cuồng…Thôi xong! Quên mất lượng uống của cậu chỉ tương đương con nít, đâu phải ông cụ nghìn chén khi xưa.
Trong khi cậu chủ nhỏ nhà Wales say tít thò lò, một nhân vật không ngờ ghé thăm quán, y liếc nhìn xung quanh, tựa như tìm kiếm cái gì đó. Sau đó vòng sang bên hông quán Chồi Hoa, bước lên cầu thang dẫn tới tầng một. Trong cái nhìn kinh ngạc của mọi người, Kiril Alerio thản nhiên cười cười như đã từng quen biết tất cả, y chào:
– Chúc các quý ông quý bà có một buổi tối vui vẻ! Hy vọng tôi có thể uống cùng mọi người mấy ly chứ?
Cách y nói, hoàn toàn giống như những người làng này, không chút nào gượng ép.
Bên ngoài cửa phòng, bức tượng thần Dio hình như hơi rung lên, con ngươi vô hồn di chuyển từ từ.
Nó.
Nhìn vào thân ảnh bên trong quán.
Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI