“Số vạch ta khắc đã gần kín một thân cây, trong lòng cũng chẳng còn bận tới việc đếm ngày tháng.
Tất cả những người chọn nhịn ăn giống ta đều đã không thể mở mắt, ngồi dậy được nữa. Ta ban đầu tưởng họ đã chết, muốn kéo xác ra một chỗ xa mà mai táng, hòng giữ họ tránh xa khỏi những kẻ đọa lạc. Nhưng khi kiểm tra, thấy trải qua hàng chục ngày mà họ vẫn còn thoi thóp thở, da thịt vẫn còn ấm. Họ chừng như đã chết mà không phải là chết, sống cũng không ra đường sống, chỉ còn là những cái thây đang phập phồng thở mà thôi.”
***
“Chuyện gì đến cũng phải đến. Khi những thây hoa trong căn nhà giữa thôn đã hết, cuối cùng những kẻ đọa lạc bắt đầu kéo đám người đang mê man, bất tỉnh trong đội ngũ đi. Lũ đọa lạc này ăn không biết bao nhiêu thây hoa, từ chỗ gần chết đói nay lại phì lũ, da thịt sồ sề đổ ra đến rách cả quần áo. Mặt mũi họ biến dạng, xương cốt cũng giãn nở, khiến tất cả đều to lớn như người khổng lồ. Da thịt họ cũng mỏng dần đi như trong suốt, nhìn thấy cả những mạch máu phập phồng, có tiếng kêu gào sôi sục như thú đói. Nhiều kẻ do quá to béo nên không còn đi lại được bằng hai chân, phải lấy cả tứ chi mà di chuyển hoặc trườn trên mặt đất như những con giòi béo múp míp. Tất cả đã không còn nghe được lời ta nói, chỉ đều đặn tới bữa là kiếm món bỏ bụng rồi lại lăn ra ngủ.
Nếu ở lại nơi đây, ta sớm muộn cũng bị họ ăn thịt. Cuối cùng, ta đành gom lấy đồ đạc còn lại rồi bỏ trốn vào sương mù, lòng mong tìm được lối thoát khỏi nơi này.”
***
“Ta lần theo đường cũ tìm về vách đá, thấy nó vẫn đóng kín như bưng, không hề để lộ ra cửa hang dẫn đội ngũ tới nơi này. Không còn đường trở lại, ta đành ước lượng vị trí của sơn thôn rồi chọn hướng ngược lại, đi càng xa càng tốt. Lúc này, ta lại nhớ tới những lời cô Đằng khi bước chân vào Thung Thượng: Khi chẳng biết đi đường nào, thì lối nào cũng là đường. Cuối cùng, đi tới bốn, năm lần đều trở về sơn thôn, mỗi lần nhìn thấy những nếp nhà rách nát ấy, ta lại càng thêm sợ hãi, tuyệt vọng. Đã có lúc ta muốn từ bỏ, quay lại đó mà chết quách đi cho rồi, nhưng than ôi, cái nỗi sợ chết lại giục chân ta phải bước đi.”
***
“Cái thứ sương mù quái đản này làm ta cảm thấy mệt mỏi, ngũ quan cũng dần tê dại đi. Mỗi bước chân đều nặng như chì, cảm thấy lạc lối vô định. Ta nhớ có lần đi công vụ trên biển Đông, khi ấy ông chủ đã mãn tang phu nhân được vài năm. Thuyền buôn khi ấy đã lênh đênh trên biển tới hơn mười ngày mà không gặp gió tốt để tìm về đất liền.
Bỗng, có cơn sương mù từ đâu kéo tới, che kín cả vùng biển làm mặt nước đen kịt như hắc ín. Thủy thủ nghe đâu bỗng nhìn thấy đủ thứ kỳ lạ trong sương, rồi thi nhau nhảy xuống biển. Ta và nhiều kẻ còn chưa kịp nhìn đã bị ông chủ bắt nhắm mắt, bịt chặt hai tai, không được nhúc nhích. Tới mấy canh giờ sau, đội ngũ mới dám hé mắt, hé tai. Lúc này, sương mù đã tan đi, biển cũng trong xanh trở lại. Chuyện trong sương mù, trừ ông chủ ra thì kẻ nào nhìn rõ đều đã lao xuống biển chết, kẻ nào còn sống thì đều không hay biết.
Sau này, ông chủ coi ta là thân tín mới kể lại lúc trà dư tửu hậu. Trên mặt biển đen kịt mờ sương năm ấy, ông chủ nhìn thấy con thuyền đi Nhật của ấp Nhạn bị cá voi đánh vỡ, còn nhìn rõ cả phu nhân lúc lâm chung và cô Đằng. Khi đó, ông chủ thực sự chỉ muốn nhảy xuống biển, bơi về phía họ mà ứng cứu. Song le, ý chí ông chủ sắt đá, nhớ rằng phu nhân đã qua đời từ lâu, mọi chuyện chắc chắn chỉ là ảo giác, nhờ vậy mà giữ được toàn mạng cho bản thân và đội ngũ.
Ta nhớ rất rõ, khi nhắc tới đó thì ông chủ rơi nước mắt. Ông nói rằng mình bảo mọi người nhắm mắt, bịt tai, song bản thân vẫn đứng nhìn cảnh ấy. Ông thấy phu nhân từ từ chìm xuống mặt biển, thấy cô Đằng bị cột buồm gãy đè dập nát cả cánh tay, mắt trái bị dằm gỗ đâm hỏng. Đứa trẻ con cứ thế nằm trên ván gỗ mà kêu gào đau đớn cho tới khi được người đi biển cứu lên.
Ta hiếm khi gặp cô Đằng, qua mấy chuyện nhỏ ông chủ kể thì luôn có thương cảm với cô. Đứa trẻ con nào mà lại phải gánh chịu những đau thương ấy? Thành thử, khi ta gặp lại cô Đằng sau nhiều năm, thấy cô băng kín mắt trái, lắp tay máy Nội Đạo Tràng, chỉ huy mọi việc minh triết, lanh lợi, thì trong lòng lại càng yêu mến, cảm thương. Chuyến đi Thung Thượng này tưởng chỉ như thám hiểm thông thường, vốn coi các sự quái dị chỉ là truyền thuyết man dân thêu dệt nên, cuối cùng lại thành tan đàn xẻ nghé, vong mạng cả đội ngũ. Tung tích cô Đằng giờ đây cũng như viên đá nhỏ ném xuống mặt hồ, chìm nghỉm vô vọng. Lòng ta lại khiếp sợ, nghĩ về cái đầu người có nhân dạng của cô Đằng. Ta sợ rằng, giọt máu duy nhất của ông chủ rốt cuộc cũng đã phải nằm lại nơi hoang vu, độc địa này.
Sau rốt, ta chọn cách ông chủ dạy khi xưa: Mắt nhắm lại, hai tay bưng lấy tai mà bước đi. Hóa ra, khi bốn phía bít bùng, tối đen như mực, lòng ta lại đỡ sợ hãi hơn lúc bị sương trắng bao phủ. Ta cứ bước đi theo hướng ngược với sơn thôn, có lúc vấp vào viên đá, rễ cây mà ngã, đập cả mặt xuống đất. Song đau đớn tới mấy, ta cũng không dám mở mắt ra, vì sợ chỉ một khắc nhìn vào sương mù, ta sẽ lại trở về cái sơn thôn ma quỷ ấy.
Ta chẳng biết mình đã đi được bao lâu, cảm giác đói bụng cũng đã biến mất, hai chân từ chỗ mỏi nhừ cũng tới lúc mất hết cảm giác. Rồi trong mắt ta, bỗng có những tia lửa lách tách, thành hình của một kẻ đang mải miết chạy. Kẻ này hình dung không rõ ràng, nhưng chân nam đá chân chiêu, cũng vừa chạy, vừa ngã liên tục.
Ta bám theo kẻ đó, cuối cùng nhìn thấy hắn đứng trước một vạt rừng tối, tứ phía là những đôi mắt bốc sáng rừng rực, tựa như hàng trăm, hàng nghìn yêu quái đang bao vây.
Những giống yêu quái ấy đồng thanh, kêu lên những tiếng thì thầm, rên rỉ, khi nhỏ, khi to, nghe rất ai oán. Kẻ nọ dường như hiểu rõ từng lời, đáp lời lũ yêu quái: ‘Ta đau khổ vô cùng.’
Giọng của kẻ ấy thật giống với một người phụ nữ. Lũ yêu quái nọ lại rên rỉ, tiếng kêu còn thống khổ, bi thương hơn. Thị lại trả lời: ‘Ta căm hận tới tận xương tủy!’
Lũ yêu quái lại rít lên mấy tiếng vô cùng độc địa, ta nghe mà sởn cả gai ốc. Thị gật đầu: ‘Có chết cũng không quên! Kiếp này, rồi tới kiếp khác!’
Tới đây, người phụ nữ gục xuống đất như thể đã chết. Cơ thể thị teo tóp lại, trên đó lại mọc ra những hoa cỏ kỳ lạ. Từ vạt rừng tối, hàng trăm, hàng nghìn giống yêu ma, độc vật tràn ra, bắt đầu ngấu nghiến những hoa cỏ đó, cho tới khi hết cả cành lẫn rễ thì cái xác cũng đã hoàn toàn tan vào đất. Thứ cuối cùng tan vào đất chính là một mảnh thủ cấp của thị, lúc đó đang nở một nụ cười thỏa mãn, cam tâm.
Lũ ác ôn ấy rống lên sảng khoái, cơ thể cuộn vào nhau, bắt đầu biến đổi. Trong chốc lát, ta thấy rõ hình dạng của nó sau khi hợp thể, thì ra chính là Ôn quỷ. Trên lưng Ôn quỷ mọc ra vô số những cây hoa lạ, những hoa lạ này lại hóa thành hình người phụ nữ không có gương mặt cất tiếng hát ai oán, giống như đang hát ru cho cõi âm ti nghe vậy.
Khi cả trăm người phụ nữ không mặt ấy theo gió bay đi mất, Ôn quỷ lại quay đầu, chậm rãi bước về phía ta. Hai chân ta nhũn ra, không thể nhấc lên mà bỏ chạy được nữa.
Ôn Quỷ hỏi ta: ‘Lão có muốn thoát khỏi đây không?’
Ta trả lời: ‘Có.’
Ôn Quỷ lấy tay vén sương mù làm đôi. Ta vừa nhìn là nhận ra con đường dẫn từ Thung Hạ lên Thung Thượng, hai bên đường, hoa đào đều đã tàn lụi. Có lẽ, ta đã ở Thung Thượng quá lâu, lâu hơn cả mùa hoa đào rừng nở mất rồi.”
***
“Ta bước qua sương mù, mắt tuy nhắm chặt nhưng trong đầu, cảnh vật tiêu điều vẫn hiện rõ. Ta đi, đi mãi, cho tới khi lờ mờ cảm thấy những nếp nhà ở Thung Hạ mới dám mở mắt ra. Có người ở Phủ đón ta, cho ta ăn uống, chăm sóc ta tận tình. Ta lại nằm liệt giường thêm một tuần liền, cuối cùng cũng tỉnh dậy để viết những dòng này.
Ta báo với mọi người, rằng đội ngũ năm mươi người ấp Nhạn, ba mươi tội nhân Nam Hà và nhóm người quan Phụ đạo đều đã mất tích. Sau ít lâu, ta được đưa về Kinh. Ông chủ nghe ta thuật lại mọi chuyện rồi cho ta về nhà tĩnh dưỡng. Tất thảy mọi người đều không ai tra hỏi gì thêm.”
Nội dung chương này chỉ khả dụng khi đọc từ ứng dụng COMI