Câu hỏi thứ ba: Hãy nêu suy nghĩ của bạn về hiện tượng xã hội “Giảm sinh”.
Giảm sinh là hiện tượng phản kháng của con người diễn ra vào giai đoạn gần đến hồi kết của một xã hội đang dần rơi vào tình cảnh sụp đổ trí tuệ hình thành nên các mặt: đạo đức, nhận thức và ý thức.
Con người là loài động vật sống theo bầy có ý thức. Để hình thành nên một xã hội, nghĩa là có rất nhiều người cùng sinh sống, chia sẻ, trao đổi, làm việc, gắn kết,… thì con người cần phải có một thứ để duy trì ý thức của mình, đó là nhận thức.
Con người nhận thức được đúng – sai, hay – dở, tốt – xấu.
Con người nhận thức được hành động và suy nghĩ của mình là để làm gì, có ý nghĩa gì.
Vậy nên, để duy trì sinh sản, thế hệ đi trước phải tạo nên những điều hướng đến phát triển bền vững, đó là không ngừng tạo ra những giá trị tốt đẹp, những hành động và lối tư duy cao quý để duy trì vẻ đẹp vốn có của mình, để góp phần thúc đẩy đồng loại sinh sản và có lý do thuyết phục về sự tồn tại của mình. Nếu muốn thế hệ sau tiếp tục sinh sản, thế hệ đi trước phải có được những giá trị đúng đắn để thôi thúc con cháu tự hào vì sự xuất hiện trên thế giới này của chúng phải có ý nghĩa lớn lao và đẹp đẽ ra sao. Từ đó, con trẻ mới muốn sống, làm việc và tiếp tục sinh sản vì sự phát triển của giống loài.
Vì sao con người phải luôn luôn tạo ra những giá trị tốt đẹp và bài trừ những điều xấu?
Tôi có ví dụ thứ nhất: Con người nhận thức được thảm họa chiến tranh.
Những ai tin vào thuyết “Luân hồi” hẳn cũng tin vào luận điểm: Kiếp sau. Vậy nên, tôi sẽ suy luận theo lối tư duy tồn tại “kiếp sau”.
Nếu “kiếp sau” con người nhận ra mình không phải là người đã từng chiến đấu vì phe “Tổ quốc” mà là đứng trong hàng ngũ của phe “Kẻ địch”, sống trên đất nước có đôi tay nhuộm đỏ máu thịt của đồng bào nước mình. Con người sẽ lập tức cảm thấy chiến tranh là lý do tạo nên hành động vô nhân đạo, man rợ và dã man dùng để giết hại đồng loại, đánh cướp tài sản. Trong khi đó, tất cả mọi người đều có chân, có tay, có đôi mắt và quan trọng nhất là cùng một giống loài. Đây là một việc đi trái với đạo đức của loài người nên nó sẽ khiến họ căm ghét giống loài của chính mình hoặc đánh mất ý chí muốn sống tiếp hay cố gắng sống trong dằn vặt, đau khổ, hận thù đến mức không muốn sinh sản để cống hiến nguồn lao động và nguồn binh lực cho đất nước “Kẻ địch”.
Đã có suy nghĩ như vậy thì lấy động lực đâu mà tiếp tục sinh sản?
Hoặc ví dụ: Trong các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam của nước Mỹ đã có những người dân nói như sau: “Chúng tôi muốn hòa bình!”, “Hoa Kỳ không phải quốc gia của những kẻ xâm lược, của kẻ giết người.”, “Kẻ gây nên chiến tranh là kẻ diệt chủng”,… Mà ai cũng biết, thời điểm đó là thời kỳ mà giá trị đạo đức của con người đang dần suy thoái. Còn trong thời hiện đại ngày nay, dù con người có ý thức hơn trước chiến tranh, nhưng vẫn có những kẻ lãnh đạo khát máu và tham lam luôn luôn lăm le ngoài bờ cõi của những đất nước không có điều kiện phát triển hoặc vừa mới trải qua tổn thương chiến tranh. Bộ mặt giả dối, xảo quyệt và thâm độc của họ vẫn luôn là nốt ung nhọt đau âm ỉ khiến những đất nước yếu thế hơn phải e dè, cảnh giác mọi lúc mọi nơi.
Trong quá khứ đã có một quốc gia cố gắng cô lập đất nước của mình với thế giới để lôi kéo người dân về phía mình, đó là Trung Quốc. Chính phủ của Trung Quốc đã tìm cách che giấu mọi thông tin về vụ thảm sát các thành phần trí thức tại Quảng trường Thiên An Môn với người trẻ hiện đại và báo chí nước ngoài đã cho thấy những thông tin được ghi lại về hành động của một chính quyền nhằm đáp lại khát vọng tự do của người dân quan trọng đến mức nào.
Tinh thần tận trung của người dân với nơi mình sinh ra luôn rất quan trọng trong việc duy trì một đất nước. Tuy nhiên, cách làm vô đạo đức của Trung Quốc thực sự khó có thể chấp nhận được.
Là một người Việt Nam, mang tinh thần và lòng nhân đạo của người Việt Nam nên em sẽ giải quyết theo cách của một người Việt Nam.
“Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”
Thời nào cũng có một thứ được gọi là thuế hoặc giấy ghi nợ và người dân nào cũng đều hiểu thuế là để phát triển đất nước, để trả lương cho chính quyền và để chính quyền thực hiện nghĩa vụ chăm lo cho nhân dân. Vậy nên, Trung Quốc có thể sử dụng giấy nợ hoặc thuế mà cha mẹ của những sinh viên đó đóng cho chính quyền để cho họ ra nước ngoài trải nghiệm nền dân chủ mà họ mong muốn. Sau khi ra nước ngoài, hãy yêu cầu những sinh viên đó làm việc để tự nuôi sống bản thân và gánh vác nợ nần cùng cha mẹ. Đó là cách nhân đạo nhất của một nhà lãnh đạo tử tế và luôn tiếc thương sinh mạng mỗi người dân đất nước họ. Nỗi đau nợ nần của những bậc phụ huynh có con cái lầm đường lạc lối và nỗi gian khổ của những sinh viên phải đóng thuế ở cả hai nước sẽ khiến những người khác nhận ra sự nghiêm trọng của vấn đề. Việc những sinh viên gánh nợ với cha mẹ mới khiến họ hiểu được rằng, muốn đạt được tự do mình mong muốn là phải độc lập, là phải tự mình nỗ lực kiếm tiền để có được lý tưởng của chính họ, để đến nơi họ muốn.
Có lẽ, sẽ có một vài người có mong muốn ở lại, nhưng phần lớn họ sẽ muốn về đất nước đã sinh ra họ hơn. Tuyệt vời hơn khi đi kèm theo họ là những giá trị tiến bộ của rất nhiều nước trên thế giới và góp phần xây dựng đất nước.
Đất nước ngày một phát triển, con người ngày một văn minh và sự lãnh đạo tài tình này còn khiến nhân dân cảm động, tự hào vì họ là người Trung Quốc. Họ sẽ luôn hiểu, lãnh đạo sẽ luôn rộng lượng trước ý kiến của họ và chỉ cho họ thế nào là đúng, thế nào là sai rồi để cho họ lựa chọn. Họ sẽ nhận ra rằng, sự thấu hiểu và yêu thương của chính quyền là luôn sẵn sàng lắng nghe cho dù quan điểm của nhân dân có non nớt. Và chính quyền sẽ luôn là cha mẹ của nhân dân, luôn bảo ban và dạy dỗ nhân dân nên người. Hơn cả thế, sự sắt son và luôn lắng nghe còn thể hiện thái độ mình luôn là đầy tớ của nhân dân.
Đó là việc trị dứt điểm căn bệnh của những người “đứng núi này trông núi nọ”. Thật đáng tiếc, cách xử lý của Trung Quốc là lựa chọn thảm sát chứ không hề nhân văn như vậy. Vì không thèm để ý đến cảm xúc của những bậc cha mẹ và luôn có suy nghĩ “chết bớt đi cho đất đỡ chật” nên họ mới tìm cách che đậy thông tin và bắt người dân sử dụng mạng nội địa.
Người Trung Quốc có biết chính quyền Việt Nam thời bấy giờ đã giải quyết những kẻ phản động thế nào không?
Tôi vẫn còn nhớ nhà văn người Colombia đoạt giải Nobel Gabriel Garcia Marquez đến thăm Việt Nam vào giữa tháng 07 năm 1979 đã chia sẻ trên phóng sự được Phạm Mạnh Hào dịch từ: The Vietnam Wars. Translated from the Spanish by Gregory Rabassa By Gabriel García Márquez. This story is from the May 29th, 1980 issue of Rolling Stone:
“Dưới thời Mỹ chiếm đóng, Sài Gòn không còn giữ được bản sắc văn hóa Á Đông của mình, trở thành một “thiên đường nhân tạo” được bao bọc bởi quân đội và sự viện trợ của Mỹ, của hàng tấn đồ tiếp tế. Người dân thành phố ảo tưởng rằng đó là đời sống thực của họ. Vì thế, chiến tranh kết thúc khiến người dân trở nên lạc lõng và xa rời thực tế, để rồi 4 năm sau khi người Mỹ cuối cùng rút đi, họ không thể gượng dậy được.
Cái giá cho sự cuồng nhiệt này là hết sức kinh ngạc: toàn miền Nam có 360.000 người tàn tật, 1 triệu quả phụ, 500.000 gái điếm, 500.000 con nghiện ma túy, 1 triệu người mắc bệnh lao và hơn 1 triệu lính thuộc chế độ cũ, tất cả đều lạc lõng trong xã hội mới. Khoảng 10% dân số Sài Gòn bị mắc bệnh hoa liễu nặng (do lây từ gái điếm) và có 4 triệu người mù chữ trên khắp miền nam. Không có gì lạ nếu tìm thấy trên những con phố nhiều trẻ em lang thang phạm tội và cũng không lạ nếu xuất hiện những trẻ em với mái tóc nâu vàng, mắt xanh mũi lõ, da đen, những đứa trẻ đã bị cha của chúng bỏ rơi.
Những nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh của Việt Nam bắt đầu ngay sau ngày giải phóng. Hệ thống nông nghiệp và giao thông được xây dựng lại nhanh nhất có thể. Một hệ thống trường cấp tốc được thành lập. Y tế xã hội hóa phòng bệnh được tổ chức và quá trình giáo dục gái mại dâm hoàn lương (phục hồi nhân phẩm), trẻ mồ côi và người nghiện bắt đầu diễn ra. Không có cuộc tắm máu nào cả như phía Mỹ dự đoán. Trái lại, Việt Nam đã nỗ lực giúp quân nhân chế độ cũ và giới tư sản không kinh doanh hòa nhập với xã hội mới. Nhiều việc làm mới được tạo ra để giải quyết công việc cho hơn 3 triệu người thất nghiệp.
Mặc dù thế, nhiều khó khăn lớn và cấp bách vẫn tồn tại, bất chấp mọi nỗ lực, sự kiên nhẫn và hy sinh của họ. Sự thật là Việt Nam thiếu nguồn lực để có thể giải quyết một thảm họa lớn và nhiều vấn đề như vậy. Chiến dịch Phượng Hoàng của CIA đã sát hại nhiều nhân tài và thay thế bằng một bộ máy tham nhũng của chế độ cũ. Hơn nữa, tổng thống lúc đó, Gerald Ford, đã không thực hiện lời hứa của nước Mỹ đưa ra trong các thỏa thuận Paris năm 1973 là bồi thường chiến tranh cho Việt Nam hơn 3 tỷ USD trong vòng hơn 5 năm. Chưa kể chính quyền Jimmy Carter cản trở những nỗ lực của Việt Nam nhằm nhận được cứu trợ của quốc tế.”
Cho đến ngày nay, chính sách đốt tài liệu gốc để chỉnh sửa theo hướng tự coi mình là nạn nhân hoặc không cho người dân tìm hiểu thông tin về thế giới xung quanh từ mạng toàn cầu đều nhằm mục đích thống trị riêng của họ. Ngoài âm mưu mị dân của Chính phủ Trung Quốc, họ còn dùng bẫy nợ để có cớ làm đảo lộn các vấn đề liên quan đến chính trị của các nước dưới danh nghĩa cho thuê đất trong một khoảng thời gian nhất định. Các hãng công nghệ của Trung Quốc luôn cài đặt hệ thống theo dõi, thu thập và ăn cắp chất xám thông qua dữ liệu có trong thiết bị công nghệ của người dùng. Âm mưu của họ cũng tương tự như âm mưu của các nước dân chủ chuyên quyền, tất cả vẫn chưa từng nguôi tham vọng đánh chiếm lãnh thổ của đất nước khác.
Sống trong thời an lạc nhưng vẫn phải tập huấn luyện quân sự và học giáo dục quốc phòng là để đề phòng những kẻ như thế. Những kẻ sẵn sàng cướp đi tự do, ăn cắp chất xám, cản trở tiến bộ và đe dọa mạng sống của đồng loại.
Tôi không phủ định chuyện năm xưa, trong thời kỳ thành lập chính quyền mới theo Chủ nghĩa Cộng sản để đi đến đích cuối cùng là Chủ nghĩa Xã hội đề cao sự cống hiến và nhân văn, Trung Quốc đứng ở vị trí là một người bạn có cùng tư tưởng chính trị đã viện trợ vật chất cho Việt Nam, góp phần giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Tưởng rằng chính phủ nước bạn theo chế độ mới sẽ đi hướng nhân đạo hơn, tiến bộ hơn, văn minh hơn, không ngờ mọi sự giúp đỡ đều có chủ đích.
Năm 1954, Việt Nam ta chỉ mong muốn nhận viện trợ vật chất của Trung Quốc vì sợ nợ máu khó trả. Tuy nhiên, Trung Quốc đã mượn thế tình thắm thiết giữa hai dân tộc để “nhiệt tình” gửi binh lính sang hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam. Lợi dụng lòng tin của nhân dân Việt Nam, binh lính Trung Quốc đã cấu kết với người gốc Hoa tại Việt Nam để chờ thời cơ đánh chiếm Việt Nam. Vào năm 1972, Trung Quốc thành lập mối quan hệ Mỹ – Trung. Đến năm 1979, Trung Quốc đưa quân sang xâm lược Việt Nam đã khiến mọi sự giúp đỡ và hình ảnh tốt đẹp trước đó của họ hóa tro tàn trong mắt nhân dân ta. Sau vụ việc xâm lược, Trung Quốc lợi dụng luật cấm sử dụng mạng toàn cầu khiến người dân không biết rõ các vấn đề xảy ra trên thế giới thời bấy giờ để viết nên một lịch sử theo góc nhìn nạn nhân của họ. Họ viết, năm 1979, Việt Nam là đất nước xâm lược Trung Quốc nên Trung Quốc đánh trả và họ gọi đó là “Phản kích tự vệ” mà lúc ấy, chúng ta mới giải phóng miền Nam (30/04/1975) khỏi tay Mỹ và cố gắng hàn gắn vết thương chiến tranh. Vậy nên, người Việt Nam ta mới gọi đó là “một vụ vu khống táo tợn” nhằm mục đích chiếm đoạt đất đai nước đồng minh của Trung Quốc.
Việc Trung Quốc đánh úp bất ngờ, nhưng lại đổi trắng thay đen trong việc ghi chép lịch sử lưu truyền đời sau cốt là để mị dân, để người dân họ cảm thấy người Việt Nam vô ơn với họ, góp phần thúc đẩy phong trào “mày đánh tao thì sau tao chơi mày, tao cũng không cảm thấy tội lỗi” của người trẻ Trung Quốc. Việc chính phủ tiêm nhiễm những kiến thức sai lệch không chỉ khiến nhân dân Trung Quốc nuôi lòng căm thù đối với người Việt Nam, mà còn tạo tiền đề ủng hộ việc xâm lược hai quần đảo ở Biển Đông vì chúng có thể mang lại lợi ích quân sự và kinh tế rất lớn cho họ. Những công dân Trung Quốc đã đóng thuế và ủng hộ cho chính phủ của họ ấy đến khi nhắm mắt xuôi tay, cuộc đời họ lại chỉ dùng để chính quyền Trung Quốc lợi dụng nhằm xâm lược, diệt chủng, cướp bóc nước khác chứ không phải lo cho đời sống nhân dân. Thật là ghê rợn. Người Trung Quốc thật sự là những kẻ đáng thương nhất. Họ chỉ là công cụ cho chính quyền Trung Quốc đi xâm lược nước khác và vờ coi mình là nạn nhân.
Trung Quốc là đất nước không tôn trọng bản quyền, khuấy động chiến tranh, không có lòng nhân đạo, là quốc gia duy nhất luôn có tư tưởng lấn chiếm đất đai của bất cứ ai kể cả nước đồng minh của họ, là đất nước duy nhất khiến tất cả các quốc gia khác ghét họ. Đó là lý do tôi cảm nhận được nỗi khổ tâm của rất nhiều lãnh đạo Việt Nam. Thật buồn cho vị trí địa lý của đất nước chúng ta. Nhưng cũng do chúng ta nằm cạnh một kẻ thâm độc nên mới càng ngày càng thông minh hơn và mạnh mẽ hơn để không phải sống những kiếp người nô lệ. Lòng tham của Trung Quốc sẽ không bao giờ giúp họ đạt tới ngưỡng tiến bộ của quốc gia đã từng xâm lược họ – Nhật Bản.
Năm 1945, Nhật Bản đã khiến hơn hai triệu người Việt Nam chết đói, ấy thế mà sau vụ đảo chính diễn ra, quân Nhật và Pháp thất bại bị quân dân ta bắt giữ và thả về nước vì chúng ta có lòng nhân đạo, vì chúng ta hiểu được nỗi đau mất người thân và nỗi đau chiến tranh. Một vài binh lính Nhật Bản có trên mình “tinh thần samurai” và rất nhiều binh lính của các nước khác như: Pháp, Đức, Áo,… đã kiên quyết ở lại Việt Nam để giúp ta đánh lại quân xâm lược và được vị lãnh tụ của nước ta gọi là “người Việt Nam mới”. Ngay đến người Hàn Quốc – đất nước nằm trong khối dân chủ tham chiến với vị thế tay sai của đế quốc Mỹ còn có phong trào “Xin lỗi Việt Nam” vào năm 1999 và giải thích tình thế bất đắc dĩ ngày đó của họ. Nét đối lập giữa những người không có nền văn minh và người có nền văn minh tiến bộ đã cho thấy rõ sự khác biệt rất lớn giữa Trung Quốc và các quốc gia trên thế giới.
Tất thảy vừa là bạn, cũng từng là thù.
Trong số các nước xâm lược, phần lớn người dân của đất nước họ thường có ý thức và có lòng nhân đạo hơn lãnh đạo của họ rất nhiều. Có thể kể đến như Mỹ có ông Norman Morrison tự thiêu trước Lầu Năm Góc để phản đối chiến tranh Việt Nam. Các cuộc biểu tình của người dân Mỹ liên tục nổ ra để phản đối những cuộc chiến tranh vô nghĩa, hay những người dân không muốn tham gia chiến tranh bị ép đi tòng quân đã nổ ra ở rất nhiều nơi trên khắp nước Mỹ.
Ở Nhật Bản cũng vậy, họ có quá khứ xâm lược Việt Nam và cũng đã thấu hiểu cho Việt Nam khi đất nước họ phải hứng trọn bom đạn của Mỹ nên sự kiện nhân dân Nhật Bản tiêu biểu như: nhà văn, nhà báo, phóng viên và vô vàn những con người thấu hiểu nỗi đau chiến tranh đã cổ vũ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ bằng vật chất, bằng lời kêu gọi hay bằng tất cả những biện pháp họ có thể làm đã là một tấm lòng đáng được ghi nhận. Không chỉ vậy, Chính phủ Nhật Bản đã có những giúp đỡ đáng kể cho Việt Nam sau chiến tranh cũng luôn được tôi ghi nhớ trong lòng.
Ngoài các nước từ thù thành bạn, cũng có rất nhiều nước đã giúp đỡ Việt Nam nên sau này, dù có phát triển đến đâu, giúp đỡ được bao nhiêu thì chúng ta vẫn sẽ cố gắng đền đáp đến cùng. Chừng nào con cháu Việt Nam còn sống, chúng ta vẫn sẽ không quên ơn sâu nghĩa nặng ấy.
Ví dụ thứ hai: Người lao động nhận thức được người thuê lao động coi thường họ.
Chủ doanh nghiệp giàu có lên từ những người lao động, nhưng họ chỉ nghĩ rằng, trí tuệ của họ mới là thứ đem lại vật chất cho họ. Họ không trân trọng mà là khinh thường những người nhân viên không thể có được bối cảnh giống như mình thì sẽ dẫn đến hai hệ lụy là: người lao động bỏ việc hoặc cố gắng làm tiếp vì tiền.
Những tiêu cực mà chủ doanh nghiệp gieo rắc lên người những nhân viên sẽ dẫn đến hiện tượng tâm lý có tên là: Áp lực, tiếp đến là chứng bệnh tâm lý: Trầm cảm và cuối cùng là dẫn đến hành vi: Tự sát để kết thúc mọi đày đọa họ phải chịu hay còn gọi là sự giải thoát cho đôi bên.
Buông tha cho những người khác là buông tha cho chính mình.
Thậm chí, doanh nghiệp có thể sụp đổ nhanh hơn vì mang tiếng xấu từ những phản ánh của nhân viên cũ. Trong những người lao động, đương nhiên còn có cả những khách hàng nằm ở các tầng lớp khác nhau sẽ e dè và kỳ thị những công ty như thế.
Khi con người muốn lao động nghĩa là họ muốn sống.
Khi con người muốn ngừng lao động nghĩa là họ muốn chết.
Hoặc như ví dụ: Các hộ gia đình nhận thức được sự phân biệt giàu nghèo trong xã hội.
Một gia đình không có điều kiện vật chất cố gắng cổ vũ con cái học thật giỏi để đỡ đần cho tương lai, đổi đời hoặc chỉ đơn giản là vì yêu thích danh hão,… con cái của họ sẽ rơi vào các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Áp lực học tập sẽ khiến con mắc bệnh trầm cảm dẫn đến hành vi tự sát.
Trường hợp thứ hai: Con thi đỗ vào trường danh tiếng nhưng không được bạn bè trong trường yêu thích vì nhà không có điều kiện vật chất. Áp lực đến từ những người xung quanh sẽ dẫn đến căn bệnh trầm cảm và lựa chọn sự phản kháng cuối cùng là tự sát.
Trường hợp thứ ba: Con học xong ra trường nhưng vì quá khứ đã chịu đựng quá nhiều áp lực từ gia đình, phân biệt giàu nghèo và danh tiếng. Con cái sẽ không còn muốn có thế hệ tiếp theo để phải chịu những cảnh tượng mà họ đã chịu, đây là sự phản kháng trước xã hội coi trọng vật chất và lòng nhân đạo của người dưỡng dục với thế hệ tương lai của họ.
Quá đau khổ sẽ ép chết tâm hồn của con người.
Trường hợp thứ tư: Con học xong ra trường, đi làm, có được cơ ngơi và giàu có hơn. Đứa con đó cảm thấy năm xưa mình chịu đựng quá nhiều đau khổ nên khi sinh con ra, đứa con ấy lại chiều chuộng con của mình vô tội vạ khiến đứa trẻ không được uốn nắn đúng cách nên sinh hư và tổn thương những người khác. Người kia tự sát thì đứa trẻ làm tổn thương người tự sát kia lại bị người thân thiết của người tự sát trả thù.
Lại một vòng lặp đau khổ mới được hình thành.
Khi gặp nhiều áp lực đến từ nhiều yếu tố khác nhau, con người sẽ không còn muốn sinh con vì họ cảm thấy cuộc sống của loài người không hề lý tưởng. Vì nghĩ cho thế hệ tương lai sẽ phải chịu đựng cảnh tượng giống như mình, con người sẽ chọn cách độc thân và vấn đề không còn muốn sinh sản để đóng góp thêm lao động cho người khác làm giàu hay cống hiến cho đất nước, xã hội là tất yếu.
Con người kiếm miếng ăn để sống, để hiểu được ý nghĩa sự sống của họ là gì, nhưng có những thành phần lại coi việc kiếm tiền, kiếm miếng ăn để sống sót và tận hưởng thế giới vật chất của họ là một chuyện nhục nhã. Vậy thì cách họ phản kháng lại sẽ là không sinh sản, không làm việc để những kẻ coi thường họ sẽ tự chết trên đống vật chất, trên sự tự mãn ấy. Còn những người có lòng tự trọng, họ sẽ mỉm cười chết trên tôn nghiêm của họ.
Cái chết là sự công bằng của tự nhiên đối với vạn vật. Mọi sinh vật đều bình đẳng, những ai được sinh ra ở nơi có điều kiện phát triển sự sống như Trái đất, vẫn còn sống sót trước các tệ nạn đến từ xã hội, thảm họa thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh, ô nhiễm,… và có được mọi thứ như ngày hôm nay là vì họ may mắn.
Con người nhận thức được xã hội càng độc hại và xấu xí thì sẽ tạo nên lý do ngừng sinh nở vì tất cả đều nhận thức được rằng, sự xuất hiện của họ trên thế giới vật chất này là vô nghĩa, là xấu xa. Một xã hội với những người đi trước không hề tôn trọng họ, luôn nghĩ cách hãm hại họ, vậy thì làm gì tốt đẹp để sống và phát triển? Vậy nên, đường nào cũng là đường chết, là khổ sai, là phông nền, là con tốt thí mạng, là bệ đỡ, là công cụ cho một kẻ khác. Đã là như thế thì làm gì còn ai thèm sinh con, thèm phát triển, thèm cống hiến, thèm hy sinh?
Người nào nhận thức được những vấn đề tiêu cực trong xã hội của họ sớm nhất thường là những người thông minh nhất và cũng sẽ nằm trong số những người tự tử hoặc không sinh sản nhiều nhất.
Nếu cuộc sống đã không tốt đẹp thì lấy lý do gì để sinh sản?
Cuối cùng, thời đại của công nghệ bùng nổ, tất cả chuyển hướng tin dùng AI và robot hơn sức người, rất nhiều doanh nghiệp đã đưa robot vào nền công nghiệp của họ. Vậy nên, việc giảm sinh cũng có liên quan đến sự xuất hiện của các cỗ máy tiên tiến.
– Phù…
Thong thả nhấn vào thanh hỏi chấm cuối cùng, tôi thở phào nhẹ nhõm và nhắm mắt lại. Ổn định lại tinh thần của mình xong, tôi quay đầu nhìn người đang dùng vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc đứng ở đằng sau mình. Trông thấy ánh mắt của anh ta tập trung vào bài viết của mình, tôi im lặng quay đầu xem xét lại xem có còn chỗ nào chưa chu toàn hay không thì chợt nhận thấy một bàn tay được đặt lên vai mình.
– Viết được ra chừng này thì anh không nghĩ em là một đứa trẻ đâu, Phong à.
Hốt hoảng bám chắc ghế khi đôi tay Bạch Khang nắm lấy vai mình và xoay lại. Ánh mắt anh ta tập trung nhìn tôi như thể nghi ngờ sự tồn tại của tôi là không có thật. Một lúc sau, giọng nói nghiêm túc nhận xét của Bạch Khang cất lên:
– Đề thi thứ nhất của em thực sự quá xuất sắc. Em biết không, rất ít người có thể nhìn bao quát mọi thứ được như em. Nói thật đi, em đang che giấu điều gì phải không?
Biết ngay anh ta kiểu gì cũng đọc lướt qua để gửi cho Hiệu trưởng chấm thi, tôi chỉ đành mím môi nghĩ đối sách. Thời gian cứ trôi qua trong không khí tĩnh lặng như thế hồi lâu. Dường như nhận ra việc tôi chần chừ không đáp là đang thừa nhận mình có vấn đề, Bạch Khang thả đôi vai của tôi ra, quay người định ra khỏi văn phòng Chủ tịch Hội học sinh.
– Đến một lúc nào đó, em sẽ nói với anh và cô ấy.
Vội vàng ngồi dậy và níu lấy vạt áo của Bạch Khang, tôi cúi đầu để che giấu biểu cảm của mình, lí nhí nói.
Tác giả có lời muốn nói:
Có một nét nghệ thuật ẩn trong từ “Khá đấy…” của Chủ tịch Hội học sinh Bạch Khang.
Trước một đứa trẻ biết kiềm nén ham thích nhất thời và biết yêu quý sức khỏe bằng cách lựa chọn những loại thực phẩm tốt, anh ta đã cảm thấy rất thú vị và coi trọng người như Phong. Phong đương nhiên không biết điều đó vì sự thông minh của cậu ta chỉ là do thói quen không được phép đối xử tệ bạc với cơ thể của chính mình, cơ thể mà cha mẹ đã dốc hết của cải để nuôi dưỡng cậu ta khôn lớn. Đông Phong là đứa trẻ luôn biết ơn và giữ gìn phẩm chất của một con người giống như khi cậu ta ở thế giới hiện thực.